7 hành vi nghiêm cấm cần biết trong phòng, chống Covid-19 để không bị xử lý hình sự (!)

Thứ ba - 24/03/2020 03:31
(TVLMP) - Những hành vi nào được coi là vi phạm pháp luật phòng chống bệnh truyền nhiễm? Trong trường hợp nào người vi phạm sẽ bị  xử lý hình sự? Thông tin tư vấn của bà Lê Vân Anh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

7 hành vi nghiêm cấm cần biết trong phòng, chống Covid-19 để không bị xử lý hình sự (!)

 
Cần biết quy định này về phòng, chống Covid-19 để không bị xử lý hình sự
 

Điều 8 Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm quy định 07 hành vi bị nghiêm cấm, gồm:

1. Cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.

2. Người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật.

3. Che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật.

4. Cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm.

5. Phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm.

6. Không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này.

7. Không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Như vậy, bất cứ người nào vi phạm một trong 7 hành vi bị nghiêm cấm trên đều coi là vi phạm pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 

Ngoài ra, Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm còn quy định về các vấn đề liên quan đến phòng, chống bệnh truyền nhiễm (thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng chống bệnh truyền nhiễm; vệ sinh phòng bệnh truyền nhiễm; giám sát bệnh truyền nhiễm; an toàn sinh học trong xét nghiệm; sử dụng vacxin, sinh phẩm y tế trong phòng bệnh; phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh); kiểm dịch y tế biên giới; chống dịch (công bố dịch; các biện pháp chống dịch); các điều kiện đảm bảo cho công tác phòng, chống dịch truyền nhiễm ở người (cơ sở vật chất, nhân lực, chế độ chính sách). Đồng thời, quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật này. 

Do đó, có thể nói, những hành vi vi phạm quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm đều được coi là vi phạm pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm.

Theo quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 và Quyết định số 219/QĐ-BYT ngày 29/01/2020 của Bộ Y tế thì bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona là bệnh truyền nhiễm nhóm A, tức là bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao. 

Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 quy định tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người tại Điều 240, theo đó, khoản 1 Điều luật này liệt kê 03 nhóm hành vi cấu thành tội phạm, cụ thể là: 

a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; 

b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người; 

c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

Liên quan đến nhóm “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người”, pháp luật hình sự hiện chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm đã liệt kê 07 hành vi bị cấm có khả năng làm lây lan dịch bệnh như đã nêu trên, đặc biệt là các hành vi như: (i) cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; (ii) che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm hoặc (iii) cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm; (iv) không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm; (v)  không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì có thể coi những hành vi này là những hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người nếu xảy ra hậu quả là “làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 để xử lý hình sự.

Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong quá trình xử lý các vụ việc cụ thể, vẫn cần có sự thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về cách hiểu của tình tiết “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 240 BLHS.

Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 còn quy định tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông tại Điều 288. Theo quy định tại Điều luật này thì người nào đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật, thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân thi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông, trừ một số trường hợp: (i) làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam (Điều 117); (ii) làm nhục người khác (Điều 155); (iii) vu khống (Điều 156) và (iv) truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (Điều 326). 

Như vậy, với hành vi thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm, đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm là hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 8 Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễn thì có thể bị xem xét xử lý hình sự về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông quy định tại Điều 288 BLHS.

Ngoài ra, BLHS năm 2015 còn quy định một số tội danh khác liên quan đến việc cung cấp, đăng tải các thông tin sai sự thật như: tội vu khống (Điều 156) (quy định nhóm hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác); tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 331); tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam (Điều 117) (quy định nhóm hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân nhằm chống nhà nước CHXHCN Việt Nam).

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

TƯƠNG TÁC NHIỀU

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây