Theo Khoản 2 Điều 104 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010:
- Thời hạn khởi kiện là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
- Thời hạn khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại;
- Thời hạn khiếu kiện về danh sách cử tri là 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan này.
Đối với trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Liên quan đến thời hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính, Toà án nhân nhân tối cao hướng dẫn cụ thể tại Điều 12 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Theo đó:
Để xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp nào là “kể từ ngày nhận được”, trường hợp nào là “kể từ ngày biết được” thì cần căn cứ vào đối tượng bị tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và phân biệt như sau:
a) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ là đối tượng được nhận quyết định thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (được cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc giao trực tiếp, được nhận qua nhân viên bưu điện, qua chính quyền địa phương hoặc những người khác theo quy định của pháp luật).
Ví dụ: Vào ngày 28/3/2013 Công ty cổ phần Xây dựng thương mại Cửa Việt nhận được Quyết định số 840/QĐ-UBND ngày 20/3/2013 của UBND tỉnh Quảng Nam về áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất của Cty Mía đường Quảng Nam cũ; thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là vào ngày 28/3/2015.
b) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định đó.
Ví dụ: Vào ngày 13/5/2013 ông S nhận được Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 3/5/2013 của UBND huyện N về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho ông với diện tích 100m2, sau đó ông tiến hành xây tường bao diện tích đất 100m2 đó. Ông H là hàng xóm của ông S cho rằng ông S đã xây tường bao lên cả phần diện tích đất của ông H. Ngày 30/52013, ông S đã đưa cho ông H xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện N cấp cho ông. Như vậy tại thời điểm 30/5/2013 là thời điểm ông H biết được Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 15/4/2013 của UBND huyện N; thời hiệu khởi kiện của ông H, bắt đầu tính từ ngày 30/5/2013.
c) Trường hợp hành vi của cơ quan, tổ chức hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là thời điểm hành vi hành chính đó được thực hiện hoặc kể từ ngày được thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực hiện.
Ví dụ: Vào ngày 09/4/2013, Chủ tịch UBND huyện Q đã tổ chức lực lượng, phương tiện cưỡng chế thu hồi toàn bộ đất và thu giữ toàn bộ tài sản còn lại trên đất của Công ty cổ phần X và Công ty này đã chứng kiến việc cưỡng đối với mình thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện của Công ty cổ phần X là ngày hành vi cưỡng chế được thực hiện, ngày 09/4/2013.
d) Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Ông L là người thành lập doanh nghiệp đã nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, nhưng khi hết thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà ông L vẫn không được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này là kể từ ngày hết thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2. Thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
a) Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan như thiên tai, địch hoạ, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do lỗi của cơ quan nhà nước làm cho chủ thể có quyền khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu khởi kiện;
b) Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
c) Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
Theo Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì cách tính thời hiệu được xác định như sau: Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Cũng theo Luật này thì thời hạn được quy định cụ thể tại Điều 149: Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác; Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra. Những quy định này trong Bộ luật Dân sự cũng được áp dụng đối với Luật Tố tụng hành chính.
Tác giả bài viết: Luật gia Vũ Lê Minh giới thiệu
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn