Vướng mắc trong công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án

Thứ ba - 04/12/2018 05:11
Ngày 16/3/2017, TANDTC ban hành Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án, sau đó ngày 04/7/2017 TANDTC ban hành Công văn 144/TANDTC-PC để Hướng dẫn Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đã nẩy sinh một số vướng mắc và quy định khi công bố bản án, quyết định.
Vướng mắc trong công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án

 

Trong bài viết này chỉ nêu vướng mắc đối với các vụ án hình sự.

Người tham gia tố tụng vắng mặt phải có văn bản yêu cầu Tòa án giữ bí mật thông tin

– Theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 4 của Nghị quyết 03[1], quy định những Bản án, Quyết định không công bố: “…người tham gia tố tụng đã có yêu cầu được giữ bí mật;”.

 – Theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết 03 và khoản 3 Công văn 144[2] thì chủ tọa phiên tòa, phiên họp phải giải thích quyền và nghĩa vụ  của những người tham gia tố tụng biết về những bản án, quyết định được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và quyền của họ về việc yêu cầu Tòa án không công bố những nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh và theo quy định tại khoản 3, Điều 301 BLTTHS[3] cũng quy định việc phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.

– Đoạn 4 của khoản 3, Công văn 144 quy định:  “Trường hợp người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, phiên họp và Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật mà người vng mặt không có văn bản yêu cầu Tòa án giữ bí mật thông tin thì được xác định là họ không yêu cầu giữ bí mật thông tin.”

Như vậy, khi người tham gia tố tụng mà tham dự tại phiên tòa, phiên họp sẽ được biết quyền và nghĩa vụ của mình trong việc Tòa án công bố bản án, quyết định. Trong trường hợp liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh thì họ phải làm văn bản yêu cầu giữ bí mật để Tòa án không công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin.

Vậy trong trường hợp người tham gia tố tụng được phép xét xử vắng mặt  thì họ sẽ không biết quyền yêu cầu giữ bí mật là phải có văn bản yêu cầu, vì quyền này chỉ được giải thích tại phiên tòa, do đó đến khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì Tòa án sẽ công bố Bản án đó sẽ ảnh hưởng tới bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh của họ, quy định này lại trái với nguyên tắc tại khoản 1, Điều 2 của Nghị quyết 03, đó là: “ Việc công bố bản án, quyết định phải tuân theo quy định của pháp luật về bảo đảm an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục, bí mật điều tra, bí mật công tác, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh; bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người dưới 18 tuổi; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”.

Để giải quyết vướng mắc này quan điểm của tác giả: Cần có văn bản hướng dẫn khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cần có thêm nội dung về quyền yêu cầu giữ bí mật của người tham gia tố tụng trong trường hợp không tham dự phiên tòa.

Hiểu như thế nào là: “ Bảo vệ đời sống riêng tư”; “Bí mật cá nhân”; “Bí mật gia đình”?

Để bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng khi Tòa án công bố bản án, quyết định  trên cổng thông tin điện tử thì hiểu như thế nào là: “ Bảo vệ đời sống riêng tư”; “Bí mật cá nhân”; “Bí mật gia đình”.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 7, Nghị quyết số 03 thì trước khi công bố Bản án, Quyết định trên cổng thông tin điện tử, Tòa án phải mã hóa đối với những thông tin liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Vấn đề này, hiện nay nhiều Tòa án rất lúng túng vì chưa có quy định nào hướng dẫn như thế nào là liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình để tiến hành việc mã hóa. Trong khi đó quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ ( khoản 1 Điều 38 BLDS).  Do vậy vấn đề này cũng cần có hướng dẫn cụ thể để các Tòa án thống nhất áp dụng.

Không mã hóa tên của những người tiến hành tố tụng

Khoản 3, Điều 7, Nghị quyết số 03 quy định “ Không mã hóa tên của những người tiến hành tố tụng”. Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng họ chỉ khác nhau về địa vị pháp lý trong một quan hệ cụ thể, ví dụ ông A là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đối với  vụ án hình sự , trong vụ án đó có ông B là giám đốc công ty X và là nguyên đơn dân sự của vụ án. Theo quy định của Nghị quyết số 03 và Công văn số 144 thì phải mã hóa tên ông B, mã hóa đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của ông B và mã hóa công ty X. Còn đối với những người tiến hành tố tụng là ông A thì không mã hóa tên của họ, tác giả không đồng tình với quan điểm này, bởi vì:

Thứ nhất: Mọi người đều có quyền về bí mật cá nhân ( Điều 38 BLDS).

Thứ hai: Khi Bản án  đã được công bố trên cổng thông tin sau một thời gian thì có thể bản án đó bị Giám đốc thẩm dẫn tới hủy bản án và đình chỉ vụ án. Như vậy trong thời gian bản án đó được công bố thì tên của những người tiến hành tố tụng thuộc cơ quan nào đều được công khai và khi bản án giám đốc thẩm tiếp tục được công bố tên của họ lại được công bố lần thứ hai. Việc không mã hóa tên của người tiến hành tố tụng sẽ dẫn đến hiện tượng chê bai, hạ thấp uy tín  tên của cán bộ đó trên các thông tin đại chúng khác trong khi người tiến hành tố tụng này mắc sai phạm thì họ đã bị xử lý theo chế tài cụ thể, ngoài ra cũng không loại trừ trường hợp khi tên của họ được công bố thì những đối tượng có tính trả thù cá nhân sẽ có những hành vi đe dọa hoặc gây tổn hại đến họ.

Vì vậy, theo quan điểm riêng của tác giả, nên quy định mã hóa tên của những người tham gia tố tụng để bảo đảm quyền của họ. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của đồng nghiệp và bạn đọc cả nước.

BÌNH LUẬN (2)
  1. Cái này chẳng có gì là khó khăn, vướng mắc cả. Bởi vì, mục đích tối cao nhất của việc công khai bản án, quyết định của Tòa án khi quy định không mã hóa những người tiến hành tố tụng là mong muốn họ có trách nhiệm hơn với công việc của mình. Vì vậy, nó khác xa so với những cá nhân, tổ chức khác. Những người tiến hành tố tụng không phải tham gia với tư cách cá nhân họ mà tham gia với tư cách chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước giao, vì vậy không có lý do gì phải mã hóa tên của họ cả. Việc không mã hóa này, còn giúp các nhà nghiên cứu, bạn đọc,… giám sát được việc làm của những người này thông qua sản phẩm là bản án, quyết định được công bố. Nếu ai đó không có đủ phẩm chất, bản lĩnh chính trị, không đủ năng lực và sợ “sai”, sợ “chê bai”,… thì họ có quyền từ chối chức trách, nhiệm vụ Nhà nước giao! Cái gốc của vấn đề cuối cùng vẫn là pháp luật, nếu những người tiến hành tố tụng làm đúng, viết đúng, xét xử đúng theo quy định của pháp luật thì chẳng có ai có thể “xuyên tạc”, “lăng mạ” hay “chê bai”… được cả!

     Đinh Duy Bằng 09:38 27/11.2018 GMT+7Trả lời

  2. Theo tôi thì không cần mã hóa tên Thẩm phán, vì khi tình nguyện làm TP thì mặc nhiên họ chấp nhận công khai tên tuổi đối với hành vi tố tụng của mình, mặt khác trong bản án GĐT cũng không ghi tên TP đã xử ST, PT.Riêng đối với nội dung “ Bảo vệ đời sống riêng tư”; “Bí mật cá nhân”; “Bí mật gia đình” thì cần phải hướng dẫn cụ thể và giới hạn của nó. Vì hầu hết các bị cáo / đương sự đều mong muốn giữ bí mật thông tin cá nhân, nếu cứ thực hiện theo yêu cầu của người tham gia tố tụng thì số lượng bản án, quyết định đăng lên sẽ rất hạn chế.

     Phuong 10:07 27/11.2018 GMT+7

Tác giả bài viết: NGUYỄN HUY VIỆT ( Viện trưởng VKSND huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum)

Nguồn tin: tapchitoaan.vn::

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây