Báo BVPL đặt câu hỏi vì sao bản án sơ thẩm bị kháng nghị ?
Không có căn cứ xác định giao dịch giả tạo
Theo Đơn kháng cáo của bà Đinh Thị Hồng Bản (thường tú tại khối Liêm Bình, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), năm 2011, bà có mượn của bà Trang nhiều lần tổng cộng 370.000.000 đồng để cho bà Loan mượn lại. Vì bà Loan không trả nên năm 2012 bà đã khởi kiện ra tòa, Tòa án đã giải quyết buộc bà Loan phải trả cho bà cả vốn và lãi 409.543.700 đồng.
Bản án có hiệu lực, nhưng bà Loan chỉ thi hành được 175 triệu đồng, số tiền còn lại 234.543.700 đồng mất khả năng trả. Mặc dù vậy tính đến ngày 01/7/2013, bà Bản cũng đã trả cả vốn và lãi cho bà Trang số tiền 301.000.000 đồng, còn nợ 287 triệu đồng.
Ngày 01/7/2013, bà Bản ký lại giấy vay tiền cho bà Trang với số tiền vay là 287.000.000 đồng, thời hạn vay 01 năm. Năm 2015, bà Trang khởi kiện, Tòa án đã buộc bà Bản phải trả cho bà Trang cả vốn và lãi 327 triệu đồng. Tuy nhiên vì bà Loan còn nợ số tiền của bà quá lớn nên bà Bản chưa đủ điều kiện để trả cho bà Trang được. Theo đó, bà Bản cam kết khi bà Loan trả hết số tiền còn nợ, sẽ trả đủ cho bà Trang.
Quyết định kháng nghị của Viện KSND huyện Hoài Nhơn
Ngày 29/10/2013, vợ chồng bà Bản tiến hành làm thủ tục tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất thổ cư tọa lạc tại khối Liêm Bình, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định cho 2 đứa con gái. Trong đó, thửa đất; và thửa đất số 417A, tờ bản đồ số 25, diện tích 82m2 cho Phạm Đinh Nhật Mỹ Ngân; và thửa số 417E, tờ bản đồ số 25, diện tích 70m2 cho Phạm Đinh Nhật Ngân. Cả 02 Hợp đồng tặng cho đều được Văn phòng Công chứng huyện Hoài Nhơn chứng thực, theo Hợp đồng tặng cho QSDĐ số 962 và số 964, quyển số 1 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/12/2013).
Tại thời điểm tặng cho không có tranh chấp, bà Trang cũng chưa gửi đơn khởi kiện. Như vậy, việc vợ chồng bà Bản lập hợp đồng tặng QSDĐ cho các con là đúng pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. “Hơn nữa, đây là tài sản của vợ chồng tôi tạo lập không có liên quan gì đến nguồn tiền vay mượn của bà Trang, tôi cũng không sử dụng tài sản này để thế chấp khi vay tiền của bà Trang, số tiền tôi vay của bà Trang là vay dùm cho bà Loan”, bà Bản cho biết.
Tuy nhiên tại Bản án sơ thẩm số 02/2019/DS-ST xét xử vào ngày 03/01/2019, TAND huyện Hoài Nhơn cho rằng, Hợp đồng tặng cho QSDĐ đối với thửa đất số 417E cho Phạm Đinh Nhật Ngân được xác lập là “giao dịch dân sự một cách giả tạo, nhằm tẩu tán tài sản, để bà Bản trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà Trang”.
Từ nhận định đó, TAND huyện Hoài Nhơn, tuyên: “
Vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 964 quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGĐ ngày 29/10/2013 có chứng thực của Văn phòng Công chứng huyện Hoài Nhơn giữa vợ chồng ông Phạm Văn An, bà Đinh Thị Hồng Bản và chị Phạm Thị Nhật Ngân, đối với phần tài sản của bà Đinh Thị Hồng Bảng tặng cho chị Ngân là ½ quyền sử dụng thửa đất số 417E nói trên. Giao toàn bộ quyền sử dụng thửa đất số 417E, tờ bản đồ số 25, diện tích 70m2 đất ở tại khối Liêm Bình, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định cho bà Đinh Thị Hồng Bản và chị Phạm Đinh Nhật Ngân chung quyền sử dụng”.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Chánh Thân – kiểm sát viên Viện KSND huyện Hoài Nhơn giữ quyền kiểm sát việc tuân thủ pháp luật, đã phát biểu ý kiến: “Đề nghị Tòa án giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trang, vì Hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa vợ chồng ông An bà Bản và chị Ngân đúng theo quy định pháp luật”.
Viện Kiểm sát kháng nghị phúc thẩm
Ngay sau khi Bản án sơ thẩm tuyên, bà Đinh Thị Hồng Bản và bà Phạm Đinh Nhật Ngân đã gửi Đơn kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án lên cấp phúc thẩm. Trong Đơn kháng cáo, bà Bản và Ngân đồng cho biết, cấp sơ thẩm xét xử không tôn trọng sự thật khách quan, đánh giá chứng cứ chưa chính xác, theo đó làm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà.
Cùng với Đơn kháng cáo của bà Bản và bà Ngân, ngày 17/01/2019, Viện trưởng Viện KSND huyện Hoài Nhơn đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 50/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2019/DS-ST ngày 03/01/2019 của TAND huyện Hoài Nhơn. Theo Cơ quan này, Tòa án sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho QSDĐ công chứng vô hiệu” là chưa đúng theo yêu cầu của nguyên đơn và bản chất của vụ án. Do đó cần phải xác định quan hệ pháp luật chính xác là: “Tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho tài sản liên quan đến việc công chứng”.
Về mặt nội dung và hình thức, Viện KSND cùng cấp cho rằng, Hợp đồng tặng cho QSSĐ giữa các bên đối với thửa đất số 417E, được Văn phòng Công chứng Hoài Nhơn công chứng là đúng quy định pháp luật. “Tại thời điểm tặng cho thì thửa đất không bị tranh chấp, không bị kê biên, không bị cấm chuyển nhượng theo quy định pháp luật; sau khi tặng cho thì chị Ngân đã đăng ký chuyển quyền sở hữu. Hơn nữa bên cho vay không yêu cầu bên vay thế chấp QSDĐ và việc tặng cho đã hoàn thành theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, trước khi có Bản án số 71/2015/DS-ST ngày 02/7/2015 của TAND huyện Hoài Nhơn buộc bà Đinh Thị Hồng Bản phải trả nợ cho vợ chồng bà Võ Thị Ngọc Trang số tiền 327.000.000 đồng. Vì vậy căn cứ Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, TAND tối cao và Viện KSND tối cao thì Hợp đồng tặng cho nêu trên không bị vô hiệu” – VKSND huyện Hoài Nhơn viện dẫn.
Từ sự phân tích trên, Viện trưởng Viện KSND huyện Hoài Nhơn, đề nghị TAND tỉnh Bình Định đưa ra xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm: Bác toàn bộ đơn kiện của bà Võ Thị Ngọc Trang.
Trao đổi với PV, Luật sư Bùi Phú Tuyên (Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh) cho rằng quan điểm kháng nghị của Viện KSND huyện Hoài Nhơn là có căn cứ pháp luật. Bỡi hợp đồng tặng cho QSDĐ của vợ chồng bà Đinh Thị Hồng Bản đối với thửa đất số 417E cho Phạm Đinh Nhật Ngân không thỏa mãn các điều kiện về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, được quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015. “Theo đó, không có căn cứ để TAND huyện Hoài Nhơn tuyên vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 964 quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGĐ ngày 29/10/2013 có chứng thực của Văn phòng Công chứng huyện Hoài Nhơn, vì lý do Hợp đồng được xác lập là “giao dịch dân sự một cách giả tạo, nhằm tẩu tán tài sản, để bà Bản trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà Trang” – LS Tuyên nêu quan điểm.