“...
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng từ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
Anh Lê Văn Khen kiện công ty Bảo Hiểm Trà Vinh yêu cầu bồi thường thiệt hại khi tàu TV-2047-H bị gió lốc nhấn chìm làm hư hại tài sản của người thứ ba theo hợp đồng bảo hiểm số 00009786/BHTS-02 ngày 14/04/2005. Còn công ty Bảo hiểm thì cho rằng vào năm 2005 anh Lê Văn Khen có hợp đồng mua hai bảo hiểm một là bảo hiểm thân tàu, hai là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu theo quy tắc, khi tai nạn xảy ra công ty căn cứ vào hợp đồng thứ nhất đã bồi thường tiền cho anh Khen xong, riêng hợp đồng thứ hai thì không bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự cho người thứ ba vì lý do “Bất khả kháng bị gió lốc nhấn chìm tàu”. Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh xét xử bác đơn yêu cầu của anh Lê Văn Khen, anh Khen không đồng ý nên kháng cáo.
Xét đơn kháng cáo của anh Lê Văn Khen yêu cầu Công ty Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho anh số tiền 40.950.000 đồng mà anh thay công ty Bảo Việt bồi thường cho các chủ hàng anh chở thuê là không có cơ sở để thỏa mãn. Mặc dù tàu TV-2047-H có hợp đồng mua bảo hiểm với 2 loại trách nhiệm: Bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba. Việc tai nạn xảy ra có thiệt hại đến tài sản hàng hóa mà anh Khen hợp đồng chở thuê, nhưng trong việc tai nạn của hợp đồng vận chuyển hàng hóa nêu trên giữa anh Khen với 2 chủ hàng, tàu TV-2047- H của anh Khen bị tai nạn làm thiệt hại hàng hóa chở thuê không phải do lỗi cố ý hoặc vô ý của anh Khen gây ra. Tai nạn xảy ra là do thiên tai gió lốc nhấn chìm tàu, đây là trường hợp bất khả kháng. Tại khoản 3 điều 549 Bộ luật dân sự quy định: Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển, thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này anh Khen không có lỗi nên anh không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho các chủ hàng. Tại điều 15 về quy tắc bảo hiểm của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam quy định: Trường hợp tàu, thuyền được bảo hiểm gây ra tổn thất cho người thứ ba mà có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Bảo Việt thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Bảo Việt và cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng từ thông tin cần thiết và các tình tiết liên quan đến việc khiếu nại của họ, đồng thời phải làm theo sự chỉ dẫn của Bảo Việt hoặc đại diện Bảo Việt chỉ định. Trong vụ tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Công ty Bảo Việt biết và cung cấp thông tin cần thiết cho việc khiếu nại của người thứ ba Bảo Việt không có trách nhiệm bồi thường. Mặc dù nhận được thông tin từ phía công ty Bảo hiểm nhưng anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt là trái với quy định của pháp luật và quy tắc bảo hiểm do đó bản thân anh Khen tự chịu trách nhiệm.
Từ cơ sở phân tích trên nghĩ nên bác yêu cầu kháng cáo của anh Lê Văn Khen. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
Anh Khen phải chịu án phí dân dự phúc thẩm.
Bởi các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bác đơn yêu cầu kháng cáo của anh Lê Văn Khen trong việc yêu cầu Công ty bảo hiểm Trà Vinh bồi thường số tiền 40.950.000 đồng.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 73/2005/DSST ngày 09/9/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh.
Anh Lê Văn Khen phải chịu 50.000 đồng án phí phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 50.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 009545 ngày 12/09/2005 của Đội thi hành án thị xã Trà Vinh.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.”
*****
Quyết định số 105/GĐT-DS Ngày 30 tháng 5 năm 2003
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
“...
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM
NHẬN ĐỊNH
Việc ông Khóm vận chuyển 2600 con vịt cho ông Điền và ông Trình vào ngày 16/8/1999 là có thật. Tuy hợp đồng miệng nhưng các bên không tranh chấp về hợp đồng này. Thỏa thuận này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 539 BLDS (Hợp đồng vận chuyển tài sản có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản).
Trong quá trình vận chuyển đã có thiệt hại xảy ra. Đêm ngày 16/8/1999 do mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm. Tổn thất mất và chết 2260 con vịt, chỉ còn lại 340 con. Tổng số thiệt hại các bên xác định là 79.100.000 đồng.
Sự cố chìm tàu và tổn thất đã được chủ tàu là ông Khóm làm bản tường trình báo cáo Công an huyện Tịnh Biên, Công an huyện Tịnh Biên có biên bản giải quyết tai nạn giao thông ngày 19/8/1999 và bản tường trình thông báo tai nạn gửi Bảo Việt An Giang ngày 17/8/1999. Sự kiện tai nạn thiệt hại do tai nạn gây ra đã được cơ quan Công an huyện Tịnh Biên xác nhận.
Theo hợp đồng bảo hiểm số 007427 ngày 23-4-1999 (BL 74) ông Khóm tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu với mức trách nhiệm là 100 triệu đồng tại Bảo Việt An Giang. Về nguyên tắc quan hệ trách nhiệm giữa Bảo Việt An Giang với ông Khóm được xác định căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm trong đó có nêu rõ điều kiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Do đó, trong trường hợp của ông Khóm, Bảo Việt An Giang phải có trách nhiệm bồi thường mất mát 2260 con vịt là tổn thất do sự kiện bảo hiểm gây ra tối 16-8-1999.
Những lý do mà Bảo Việt An Giang nêu ra để từ chối việc giải quyết bồi thường cho ông Khóm theo Thông báo số 87/1999/TB.BH ngày 04/9/1999 như: “căn cứ Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy, nội địa quy định, bên vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp do thiên tai, địch họa hoặc bất khả kháng” là không đúng và không có căn cứ, bởi lẽ việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm phải căn cứ vào quy định tại các điều từ Điều 571 đến 584 BLDS về hợp đồng bảo hiểm.
Việc trả tiền bảo hiểm quy định tại Điều 580 Bộ luật dân sự. Bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xảy ra thiệt hại; nếu do lỗi vô ý của người được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm không phải trả một phần tiền bảo hiểm tương ứng với mức độ lỗi của bên được bảo hiểm.
Đối với trường hợp của ông Khóm thì ông Khóm không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu (Mục B) thì không có thỏa thuận nào về việc Bảo Việt An Giang được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy, Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Mặt khác, Điều 549 Bộ luật dân sự vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng bảo hiểm cũng như thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm, mà đã chấp nhận lý do từ chối trách nhiệm của Bảo Việt An Giang để bác yêu cầu của ông Khóm là không đúng. Bởi vậy, cần hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm theo hướng buộc Bảo Việt An Giang phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Căn cứ vào những nhận định;
Căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
- Hủy bản án sơ thẩm số 03 ngày 24-12-1999 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên và bản án phúc thẩm số 74 ngày 29-2-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
- Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.”
BÌNH LUẬN
Khái quát chung. Mặc dù không thực hiện hợp đồng và việc này gây thiệt hại cho bên kia, bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có thể không phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại. Việc miễn giảm này có thể do pháp luật quy định hay do các bên thỏa thuận.
“Trong cổ luật Việt Nam, nhà lập pháp chấp nhận một cách rất dè dặt trường hợp bất khả kháng”
[1]. Ngày nay, trường hợp bất khả kháng đã được các nhà lập pháp quan tâm hơn. Theo khoản 1 Điều 161 BLDS (tức khoản 1 Điều 170 BLDS năm 1995), “sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Phần sau sẽ cho thấy, theo BLDS, khi có sự kiện bất khả kháng làm cản trở việc thực hiện hợp đồng thì bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, phải nói rằng trong phần liên quan đến hợp đồng, BLDS không định nghĩa thế nào là sự kiện bất khả kháng. Khoản 1 Điều 161 vừa nêu định nghĩa bất khả kháng nhưng không trong phần hợp đồng mà trong phần thời hiệu, cụ thể là để xác định “thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự”. Ngược lại, Luật Thương mại năm 1997 định nghĩa sự kiện bất khả kháng trong lĩnh vực hợp đồng. Theo khoản 2 Điều 77 Luật Thương mại năm 1997, “trường hợp bất khả kháng là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, do những sự kiện có tính chất bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được”.
Một số văn bản dưới luật cũng có định nghĩa thế nào là sự kiện bất khả kháng. Ví dụ theo khoản 1 Điều 4 Quyết định số 42/2002/QĐ-BCN ngày 9/10/2002 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về việc ban hành quy định kiểm tra cung ứng, sử dụng điện và xử lý vi phạm hợp đồng mua bán điện, “sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan mà bên vi phạm không thể kiểm soát được, không thể lường trước được và không thể tránh được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép. Sự kiện bất khả kháng bao gồm mưa, giông, bão, lốc, lụt, sấm sét, hạn hán, động đất, chiến tranh, phá hoại và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
Sự tồn tại. Hai vụ việc trên liên quan đến sự kiện bất khả kháng trong lĩnh vực hợp đồng. Trong hai vụ án, gió lốc nhấn chìm tàu được coi là một sự kiện bất khả kháng.
Điều này đã được thể hiện trong bản án của Tòa án tỉnh Trà Vinh. Cụ thể như sau: ngày 10/5/2005, anh Khen nhận hợp đồng chở phân cho ông Minh. Khoảng 12 giờ 30, khi tàu đang lưu thông đến khu vực ấp Hội An trên sông Hậu thì tàu bị gió lốc nhấn chìm. Về vấn đề này, theo Tòa án, “việc tai nạn xảy ra có thiệt hại đến tài sản hàng hóa mà anh Khen hợp đồng chở thuê, nhưng trong việc tai nạn của hợp đồng vận chuyển hàng hóa nêu trên giữa anh Khen với hai chủ hàng, tàu của anh Khen bị tai nạn làm thiệt hại hàng hóa chở thuê không phải do lỗi cố ý hay vô ý của anh Khen gây ra. Tai nạn xảy ra là do thiên tai gió lốc nhấn chìm tàu, đây là trường hợp bất khả kháng”
[2]. Như vậy, theo Tòa án, sự cố trên là do hiện tượng bất khả kháng.
Trong vụ việc được Tòa án tối cao xét, sự kiện là “do mưa gió to nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm”. Đây là “tai nạn tàu bị chìm vì gió bão”. Về bản chất pháp lý, Tòa án tối cao không nêu rõ đây là “trường hợp bất khả kháng” nhưng việc vận dụng Điều 549 BLDS năm 1995 theo đó quy định này vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng thì chúng ta có thể khẳng định rằng đối với Tòa án tối cao, đây cũng là trường hợp bất khả kháng.
Sự tồn tại (
tiếp). Để là một trường hợp “bất khả kháng”, theo Bộ luật Dân sự thì phải có ba điều kiện.
Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Sự kiện này có thể là sự kiện tự nhiên như thiên tai, nhưng cũng thể là do con người gây ra như hành động của một người thứ ba. Về tính “khách quan”, trong thực tế giới hạn giữa “khách quan” và “không khách quan” đôi khi rất mỏng manh. Khi một doanh nghiệp không thể thực hiện được hợp đồng đối với đối tác của mình do công nhân của doanh nghiệp đình công thì có được coi là một sự kiện xảy ra một cách khách quan không? Theo chúng tôi thì câu trả lời là không. Trong ví dụ được đề cập ở phần vừa nêu, điều kiện này dường như được thỏa mãn bởi việc cản trở thực hiện hợp đồng là mưa to, gió bão, gió lốc.
Thứ hai, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được”. Như Luật Thương mại năm 1997 quy định, sự kiện này phải không thể lường được tại thời điểm giao kết hợp đồng nhưng xảy ra sau thời điểm này. Các bên có thể không lường trước được một sự kiện xảy ra tại thời điểm giao kết. Trong trường hợp như vậy thì chúng ta không áp dụng chế định liên quan đến bất khả kháng. Ví dụ, Công ty A nhận vận chuyển một lô hàng cho Công ty B bằng tàu C. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, tàu C đang được sử dụng ở ngoài khơi và bị đắm chìm nhưng việc này chưa được thông báo về Công ty. Như vậy, các bên không lường được sự kiện làm cản trở thực hiện hợp đồng nhưng xảy ra tại thời điểm giao kết. Ở đây, chúng ta không áp dụng chế định “bất khả kháng” mà vận dụng những quy định liên quan đến giao kết hợp đồng. Trong ví dụ trên, mưa to, gió bão, gió lốc xảy ra sau khi hợp đồng được giao kết nhưng có thực sự không thể lường trước được hay không? Nếu thông tin đại chúng đã cho biết là sẽ có mưa to, gió bão, gió lốc vào thời điểm này thì dường như điều kiện này không thỏa mãn.
Thứ ba, sự việc xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết. Việc chìm tàu và tàu va vào cầu trên có thực sự “không thể khắc phục được” không? Nếu trước khi có giông bão và sau thời điểm hợp đồng được giao kết, thông tin đại chúng đã cho biết là có giông bão mà chủ tàu vẫn không đề phòng, vẫn cho tàu vào sử dụng thì điều kiện này dường như không được thỏa mãn. Bởi, chủ tàu đã không “áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Rất tiếc là Tòa án đã kết luận quá sớm khi cho rằng ở đây là do hiện tượng bất khả kháng.
Miễn trách nhiệm. Khi nghĩa vụ hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do bất khả kháng thì bên có nghĩa vụ không có trách nhiệm bồi thường. Bởi theo khoản 2 Điều 302 BLDS (tức khoản 2 Điều 308 BLDS năm 1995), “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự”.
Như vậy, về nguyên tắc khi có sự kiện bất khả kháng, bên không thực hiện hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại. Chẳng hạn, đối với nghĩa vụ vận chuyển tài sản, “trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại” (Điều 546 BLDS). Tương tự, nếu bên giữ làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ trong “trường hợp bất khả kháng” thì bên gửi tài sản không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 561 BLDS). Ngoài BLDS, một số văn bản pháp luật khác cũng quy định việc miễn trách nhiệm bồi thường này. Ví dụ theo khoản 3 Điều 31 và khoản 4 Điều 56
Pháp lệnh Bưu chính, viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, “bên tham gia cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát thư được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng theo quy định của pháp luật” và “các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng theo quy định của pháp luật”.
Quay lại vụ việc trên, sau khi xảy ra tai nạn, anh Khen đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho chủ hàng và yêu cầu Bảo Việt hoàn trả. Còn đối với vụ việc thứ hai cũng vậy, ông Khóm đã thỏa thuận bồi thường cho ông Trinh, ông Điền. Nhưng yêu cầu này không được Bảo Việt chấp nhận. Khi tranh chấp được đưa ra Tòa, theo Tòa án tỉnh Trà Vinh, “xét đơn kháng cáo của anh Khen yêu cầu Bảo Việt phải bồi hoàn lại cho anh 40.950.000 đồng mà anh thay Bảo Việt bồi thường cho các chủ hàng anh chở thuê là không có cơ sở để thỏa mãn. Mặc dù tàu có hợp đồng bảo hiểm với hai loại tránh nhiệm: bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba. Việc tai nạn xảy ra có thiệt hại đến tài sản hàng hóa mà anh Khen hợp đồng chở thuê, nhưng trong việc tai nạn của hợp đồng vận chuyển hàng hóa nêu trên giữa anh Khen với hai chủ hàng, tàu của anh Khen bị tai nạn làm thiệt hại hàng hóa chở thuê không phải do lỗi cố ý hay vô ý của anh Khen gây ra. Tai nạn xảy ra là do thiên tai gió lốc nhấn chìm tàu, đây là trường hợp bất khả kháng. Tại khoản 3 Điều 549 BLDS quy định: trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này anh Khen không có lỗi nên anh không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ hàng”.
Thỏa thuận khác. Như vậy, mặc dù có thiệt hại do việc không thực hiện đúng hợp đồng, bên có nghĩa vụ không phải bồi thường khi việc này do hiện tượng bất khả kháng gây ra. Tuy nhiên, việc này có thể được các bên thỏa thuận khác. Bởi theo khoản 2 Điều 302 BLDS, “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tương tự, theo khoản 3 Điều 546 BLDS, “trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong thực tế không hiếm trường hợp các bên thỏa thuận là bên có nghĩa vụ bồi thường cho bên có quyền khi sự kiện bất khả kháng đã xảy ra và thỏa thuận này được Tòa án thừa nhận. Trong vụ việc thứ hai, ông Khóm là chủ tàu chuyên vận chuyển hàng hóa. Đáng ra, theo những quy định trích dẫn ở phần trên, ông Khóm không có nghĩa vụ bồi thường. Nhưng, ông đã thỏa thuận với bên có quyền là ông chịu trách nhiệm bồi thường. Thỏa thuận bồi thường này là phù hợp với quy định của BLDS mà chúng ta đã biết ở trên. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án cũng thừa nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận. Cụ thể, theo Tòa án tối cao, “Điều 549 BLDS (năm 1995, tức Điều 546 BLDS năm 2005) vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực”.
Phần trình bày vừa rồi liên quan đến trường hợp một bên chịu toàn bộ thiệt hại do sự kiện bất khả kháng gây ra. Thiết nghĩ trong những trường hợp như vậy thì các bên nên thỏa thuận chia sẻ thiệt hại. Giải pháp này hợp lý hơn việc quy trách nhiệm (theo pháp luật hay theo thỏa thuận) cho một bên. Một số văn bản còn khuyến cáo các bên thỏa thuận chia sẻ rủi ro này. Ví dụ, liên quan đến hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa, theo Điều 4
Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, “doanh nghiệp và người sản xuất có trách nhiệm thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng; bên nào không thực hiện đúng nội dung đã ký mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Các bên ký kết hợp đồng cùng nhau thỏa thuận xử lý các rủi ro do thiên tai, đột biến về giá cả thị trường và các nguyên nhân bất khả kháng khác theo nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro và được Nhà nước xem xét hỗ trợ một phần thiệt hại theo quy định của pháp luật”.
Người thứ ba. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ và bên có quyền tự nguyện bồi thường thiệt hại thì có thể yêu cầu thực hiện hợp đồng bảo hiểm hay không? Về vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau và điều đó được thể hiện trong hai vụ việc được nêu ở trên. Cụ thể như sau:
Trong ví dụ liên quan đến anh Khen, anh Khen có mua hai bảo hiểm của Bảo Việt, một bảo hiểm thân tàu và một bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. Theo Tòa án tỉnh Trà Vinh, “tại Điều 15 về quy tắc bảo hiểm của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam quy định: trường hợp tàu, thuyền được bảo hiểm gây ra tổn thất cho người thứ ba mà có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Bảo Việt thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Bảo Việt và cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng từ thông tin cần thiết và các tình tiết liên quan đến việc khiếu nại của họ, đồng thời phải làm theo sự chỉ dẫn của Bảo Việt hoặc đại diện do Bảo Việt chỉ định. Trong vụ tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Bảo Việt biết và cung cấp thông tin cần thiết cho việc khiếu nại của người thứ ba Bảo Việt không có trách nhiệm bồi thường. Mặc dù nhận được thông tin từ phía công ty bảo hiểm nhưng anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt hại là trái với quy định của pháp luật và quy tắc bảo hiểm do đó bản thân anh Khen tự chịu trách nhiệm”. Như vậy, việc gây thiệt hại cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Do đó, về nguyên tắc, anh Khen không có nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên, theo Tòa án, anh Khen tự nguyện nhận bồi thường nên anh phải gánh chịu sự tự nguyện này.
Trong ví dụ liên quan đến ông Khóm, theo Tòa án tối cao, “theo hợp đồng bảo hiểm ông Khóm tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu với mức trách nhiệm là 100 triệu đồng tại Bảo Việt An Giang. Về nguyên tắc, quan hệ trách nhiệm giữa Bảo Việt An Giang với ông Khóm được xác định căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm trong đó đã nêu rõ điều kiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Do đó, trong trường hợp của ông Khóm, Bảo Việt An Giang phải có trách nhiệm bồi thường mất mát 2260 con vịt là do sự kiện bảo hiểm gây ra ngày 16/8/1999. Những lý do mà Bảo Việt An Giang nêu ra để từ chối việc giải quyết bồi thường cho ông Khóm theo thông báo số 87/1999/TB.BH ngày 04/9/1999 như “căn cứ Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa quy định bên vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp thiên tai, định họa hay bất khả kháng” là không đúng và không có cơ sở, bởi lẽ việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm phải căn cứ vào quy định tại các điều từ Điều 571 đến 584 BLDS và hợp đồng bảo hiểm. Việc trả tiền bảo hiểm quy định tại Điều 580 BLDS. Bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xảy ra thiệt hại, thì bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm; nếu do lỗi vô ý của người được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm không phải trả một phần tiền bảo hiểm tương ứng với mức độ lỗi của bên được bảo hiểm. Đối với trường hợp của ông Khóm thì ông Khóm không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt khác, theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì không có thỏa thuận nào về việc Bảo Việt được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy, Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Mặt khác, Điều 549 BLDS (năm 1995, tức Điều 546 BLDS năm 2005) vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang”.
Người thứ ba (tiếp). Hai ví dụ trên cho thấy không có sự thống nhất trong việc đánh giá hiệu lực pháp lý của thỏa thuận bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng. Đối với Tòa án tỉnh Trà Vinh thì thỏa thuận này không ràng buộc bên nhận bảo hiểm còn đối với Tòa dân sự Tòa án tối cao thì lại khác.
Cách lập luận của Tòa án tỉnh Trà Vinh là không thuyết phục. Ở đây, Tòa án chỉ dựa vào Điều 15 về quy tắc bảo hiểm của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam quy định: trường hợp tàu, thuyền được bảo hiểm gây ra tổn thất cho người thứ ba mà có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Bảo Việt thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Bảo Việt và cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng từ thông tin cần thiết và các tình tiết liên quan đến việc khiếu nại của họ, đồng thời phải làm theo sự chỉ dẫn của Bảo Việt hoặc đại diện do Bảo Việt chỉ định. Đây có thể coi là một nội dung của hợp đồng bảo hiểm nhưng quy định này chỉ nêu thủ tục yêu cầu thực hiện hợp đồng bảo hiểm chứ không cho biết rõ về vấn đề pháp lý đang xem xét.
Còn về lập luận của Tòa dân sự thì có nhiều điểm thuyết phục hơn. Ở đây, Tòa án đã dựa vào những quy định về hợp đồng bảo hiểm trong BLDS và nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Tòa án đã loại bỏ lập luận của Bảo Việt cho rằng theo Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa thì bên vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp thiên tai, định họa hay bất khả kháng. Thể lệ này chưa hẳn đã cấm các bên có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng. Mặt khác, đây không hẳn đã là một phần nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Do đó, thể lệ này không có hiệu lực đối với các bên trong hợp đồng bảo hiểm.
Giải thích hợp đồng. Hơn nữa, nhằm bảo vệ bên chỉ biết chấp nhận hợp đồng vì trong quá trình giao kết họ không có điều kiện để thương lượng cụ thể chi tiết, khoản 8 Điều 409 BLDS cho rằng “trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế”. Ở đây, bên đề xuất phải gánh chịu rủi ro gây ra bởi sự tối nghĩa tiềm tàng trong cấu trúc lựa chọn.
Hợp đồng bảo hiểm cũng tuân theo cách giải thích này. Bởi theo Điều 21 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, “trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm”. Trong ví dụ trên, Tòa án đã dựa vào hợp đồng để xác định Bảo Việt có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm hay không. Tòa án cho rằng, “theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Do đó, trong trường hợp của ông Khóm, Bảo Việt An Giang phải có trách nhiệm bồi thường mất mát 2260 con vịt là do sự kiện bảo hiểm gây ra ngày 16/8/1999” và “theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì không có thỏa thuận nào về việc Bảo Việt được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão”. Điều đó cho thấy, Tòa án đã dựa vào hợp đồng (không rõ ràng về việc có bảo hiểm trong trường hợp bất khả kháng hay không), cụ thể là phần phạm vi bảo hiểm và phần loại trừ bảo hiểm để kết luật rằng sự kiện xảy ra không thuộc trường hợp loại trừ. Do đó, Bảo Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm. Bên có ưu thế mạnh ở đây là Bảo Việt và nội dung của hợp đồng nhất là phần loại trừ bảo hiểm do Bảo Việt soạn thảo. Việc giải thích trên là bất lợi cho bên mạnh và phù hợp với khoản 8 Điều 409 nêu trên.
Tốt hơn hết là để tránh những phiền toái như trên, các bên nên nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm là có hay không bảo hiểm trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng gây ra.