Quan Vân Trường là đại tướng nhà Thục Hán, sống vào thế kỷ thứ 3, bị chém đầu bởi quân Tôn Quyền vào năm 58 tuổi. Xung quanh nhân vật lịch sử được thần thánh hóa này có rất nhiều chuyện kỳ bí và thú vị.
Tại sao Quan Công mặt đỏ phừng phừng?
Tương truyền, Quan Công vốn có nước da trắng trẻo, và râu cũng không dài. Dung mạo của ông chỉ biến đổi sau một lần chạy trốn sự truy sát.
Cho tới nay, hậu thế vẫn chưa hết băn khoăn về gương mặt đỏ rực của Quan Vân Trường. Có vô vàn giai thoại lý thú về nguồn gốc nước da đỏ của ông. Theo dân gian, nước da đỏ rực của Quan Công gắn liền với tích bôi máu gà. Trong một lần bị quan binh truy sát, Quan Vân Trường trốn chạy tới vùng núi non hun hút. Tại đây, một sơn nữ đang ngồi trước cửa nhà thêu thùa bỗng trông thấy người anh hùng gặp nạn, vội bảo ông lên giường giả bệnh. Cô gái giết một con gà trống, bôi tiết khắp mặt Quan Công, rồi cắt tóc mình gắn quanh miệng ông.
Quan binh truy sát tới nơi, trông thấy có người nằm trên giường, bèn mở chăn ra xem, chắc mẩm không phải. Vì người mà họ truy bắt có nước da trắng trẻo, khôi ngô chứ không đỏ rực, râu dài lê thê và dáng vẻ phát sốt như vậy. Nghĩ đoạn, quan binh bỏ đi. Nhờ đó mà Quan Công thoát nạn. Từ đấy về sau, làn da của ông cứ mãi ửng lên sắc đỏ lạ kỳ và mái tóc của cô sơn cước nọ cũng trở thành bộ râu quắc thước của ông.
Trong dân gian còn lưu truyền một giai thoại thú vị khác. Khi bị truy sát, Quan Vân Trường chạy tới bờ sông thì gặp một bà lão. Thấy ông dáng anh hùng, bà cụ bèn cất lời: “Này chàng trai, con hãy tự đánh vào mũi mình”. Nghe vậy, Quan Công bèn dùng nắm đấm đấm mạnh vào mũi, khiến máu me giàn giụa trên mặt, nước da cũng vì thế mà nhuộm tràn sắc đỏ.
Tiếp đó, ông nhanh tay cắt tóc dính quanh miệng, biến thành một đại trượng phu râu dài mặt đỏ đầy uy nghiêm, vì thế mà thoát chết. Quan Vân Trường đa tạ bà lão nhanh trí hiến mưu rồi chạy tiếp về hướng Trác Châu. Dân gian còn đồn thổi, vị lão bà ấy không ai khác chính là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thành.
Cũng có quan niệm cho rằng, Quan Vân Trường không phải người phàm. Ông là Long Vương chuyển kiếp. Tương truyền, Giải Châu, quê nhà của Quan Công, có hồ muối lớn. Bên bờ hồ có ngôi thiền tự. Lão hòa thượng tại đây rất thích đánh cờ. Phàm là những ai đi qua đều vui vẻ đấu cờ cùng hòa thượng, thậm chí lưu lại dùng bữa cơm chay thanh tịnh. Về sau, có một vị đại trượng phu tới đây nhiều tháng để chơi cờ cùng lão hòa thượng.
Một ngày, lão hòa thượng thua liên tục ba ván. Lúc đó vùng Giải Châu nhiều tháng nay không một giọt mưa, đồng ruộng khô hạn, bách tính đói kém, héo hon. Hòa thượng vì thương xót muôn dân mà lòng trĩu nặng. Vị đại trượng phu nghe tâm sự bèn lên tiếng: “Ta chính là Long Vương. Ngọc hoàng thượng đế không cho ta làm mưa tại vùng này. Ta cũng đành lực bất tòng tâm”.
Nghe nói thế, lão hòa thượng hết mực van xin. Long Vương động lòng thương cảm mà rằng: “Được, ta sẽ về trời làm mưa. Nhưng ta có một thỉnh cầu. Đợi tới khi mưa dứt, thầy hãy đem một chiếc thùng lớn đến bên bờ hồ, khi nào nước nổi đỏ ngầu thì múc vào thùng đem về chùa”. Nói đoạn, vị trượng phu biến mất.
Quả nhiên, mưa như trút nước đổ xuống khắp vùng, khiến người lẫn vật như được hồi sinh. Lão hòa thượng không quên lời dặn dò của ân nhân, bèn đem thùng lớn tới hồ, lấy đầy nước đang vẩn đỏ. 108 ngày sau đó, trong thùng nước bỗng nổi lên một cậu bé hồng hào, đó chính là Quan Công sau này.
Đứa bé thực chất là Long Vương, sau khi trái lệnh trời làm mưa cho khắp vùng Giải Châu, đã bị trừng phạt. Dòng nước màu đỏ trong lòng hồ chính là những giọt máu của ông. Khi được đem về chùa cất giữ, hình hài mới của Long Vương được tạo thành, đó chính là Quan Công. Ngay từ khi ra đời, gương mặt ông đã ửng màu đỏ rực.
Theo cách lý giải khác, hình tượng Quan Công được xây dựng nên nhờ trí tưởng tượng của các văn nhân thời phong kiến. Họ căn cứ theo những truyền thuyết trong dân gian và “tô” sắc đỏ cho gương mặt của vị anh hùng cái thế này. Điển hình là nhân vật Quan Vân Trường trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung.
Cho tới nay, sự thực về sắc da của Quan Công vẫn chưa có lời giải chính xác, nhưng hậu thế luôn coi đó là màu sắc biểu thị cho tinh thần quật cường, ý chí chiến đấu hiên ngang; bản lĩnh chính trực và bản chất anh hùng của ông. Sắc đỏ ấy còn hàm chứa một ý nghĩa văn hóa sâu xa của người Trung Quốc.
Tự cổ chí kim, thiên hạ đều quan niệm, những vật có sắc đỏ đều mang tính thần bí và tiềm tàng năng lượng siêu phàm. Vì vậy, Quan Công mặt đỏ thể hiện sự oai phong, đường vệ của ông, khiến mọi thứ ác tà đều không thể làm hại. Ngay trong xã hội phong kiến xưa kia, hoàng đế mặc hoàng bào, nhưng phần lớn đồ vật trong cung đều có sắc đỏ: thảm đỏ, đèn lồng đỏ...
Quan Công là sư tổ của nghề… cầm đồ, cắt tóc
Nhắc đến Quan Vân Trường, ai nấy hình dung ngay đến một chiến tướng oai phong lẫm liệt, thân hình cao lớn, mặt đỏ râu dài, phong thái uy nghiêm như một vị thần. Ông lại nổi tiếng với tính coi khinh tiền tài, vì thế, rất nhiều người sẽ rất ngạc nhiên khi biết ở Trung Quốc, ông được tôn là tổ sư của rất nhiều nghề nghiệp mưu sinh được coi là “tầm thường” như nghề làm bếp, bán thịt, đồ tể, cầm đồ, cắt tóc, làm đậu phụ…
Các nghề làm võ sư, thầy tướng số cũng coi Quan Công là tổ, cùng với nhiều nghề khác, tổng cộng đến vài ba chục. Thậm chí, các đao phủ cũng “dựa vía” Quan Công. Họ thường giấu đao trong đền thờ ông vì cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở các oan hồn của phạm nhân bị họ chém đầu về báo oán.
Không có gia cảnh giàu có như ông em kết nghĩa Trương Phi hoặc chút dòng dõi quý tộc, dù là xa vời, của ông anh kết nghĩa Lưu Bị, thuở hàn vi, Quan Công xuất thân tầm thường, nghèo khó, từng kiếm sống bằng nghề đẩy xe hàng, có lúc làm đậu phụ. Việc ông được tôn làm thánh tổ của nghề làm đậu phụ nghe còn có lý, còn các nghề khác cũng nhận làm tổ thì quả là một điều lạ lùng.
Lạ hơn nữa là mặc dù coi tiền tài như cỏ rác, Quan Vân Trường lại được thờ như một vị thần tài ở Trung Quốc. Các quán ăn, thương điếm… hầu như đều có bàn thờ Quan Công với bức tượng cầm đao, cưỡi ngựa rất oai phong. Điều này lại có xuất xứ rõ ràng từ thời nhà Thanh.
Tương truyền, hoàng đế Càn Long hồi mới lên ngôi mỗi lần đi lại đều nghe phía sau mình có tiếng lẹp kẹp như ai đó mang dép đi theo, nhưng ngoảnh lại thì không thấy ai cả. Một lần quay đầu lại như vậy, vua cất tiếng hỏi: “Ai vẫn hay theo sau hộ giá trẫm thế?”. Lập tức có tiếng trả lời: “Là nhị đệ Quan Vân Trường”. Sau đó, ông vua triều Thanh bèn xuống chiếu phong cho Quan Công là tài thần. Trên cửa miếu thờ danh tướng nhà Thục Hán này từ đó người ta thường đề 10 chữ thếp vàng: “Hán vi Văn võ đế, Thanh phong Phúc lộc thần”.
Cũng trong đời Càn Long, có lời đồn rằng chính Quan Vũ hiển linh giúp quân Thanh thắng giặc, khiến binh lính nhà Thanh treo ảnh ông trong doanh trại, và đeo tượng của ông như thứ bùa hộ mệnh. Đời sau, vua Hàm Phong đã tôn ông lên ngang hàng với Khổng Tử, gọi là Quan Phu Tử. Sau họ Khổng, ông là người duy nhất được tôn xưng là Phu Tử.
Theo các nhà nghiên cứu, việc phong Quan Vũ làm tài thần là một nước cờ chính trị của Càn Long, và câu chuyện Quan Công hiển linh hộ giá nhà vua có lẽ cho chính vua hư cấu. Mặc dù Càn Long đã là đời vua thứ tư của nhà Thanh thống trị Trung Quốc nhưng làn sóng phản Thanh phục Minh vẫn còn mạnh, dân chúng vẫn không quên Mãn Thanh là ngoại tộc, là kẻ xâm lăng. Để góp phần vỗ yên dân chúng, Càn Long đã lợi dụng Quan Vũ, người được bao nhiêu đời dân Hán tôn sùng, kính bái.
Cho dù có phản đối nhiều chính sách của nhà Thanh nhưng người dân lại phấn khởi khi một vị anh hùng người Hán được chính vua Thanh kính trọng, phong thần. Dân Hán lại rất coi trọng thần tài, vì thế thay vì thấy sự tréo ngoe trong chuyện gán Quan Vũ với việc buôn bán, họ chẳng nghĩ ngợi gì nhiều mà hết lòng thờ phụng để mong có nhiều tài lộc.
Không chỉ dụ dỗ dân Hán, với câu chuyện hoang đường kể trên, hoàng đế người Mãn Thanh còn mượn oai danh Quan Công để tự nâng mình lên một bậc: ông ta là bậc mà đến anh linh của đức Thánh Quan cũng phải hộ giá. Kể ra, các bậc trí giả người Hán có lẽ đã rất giận dữ vì điều này.
Nguồn tin: Kiến Thức
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn