Có phải lăng vua Quang Trung có tên là Đan Dương. Đan Dương lăng chính là lăng Ba Vành?
Vua Quang Trung - vị hoàng đế có số phận rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Sự đặc biệt không chỉ ở sự xuất thân của vua từ một người nông dân áo vải cờ đào, không chỉ ở tài năng quân sự kiệt xuất, mà ngay cái chết của nhà vua cũng khác thường. Cho đến bây giờ đã qua hơn 200 năm kể từ khi vua băng hà (1792), vẫn không rõ vua mất vì lý do gì, lăng mộ của vua nằm ở đâu. Hồ sơ này muốn trình bày lại toàn cảnh cuộc giải mã “bí ẩn lăng mộ vua Quang Trung” kéo dài ròng rã 75 năm qua.
Từ một gợi ý của linh mục Léopold Cadière - chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H) của Hội Những người bạn của Huế xưa, nhà khảo cứu Nguyễn Thiệu Lâu, giáo sư sử địa Trường trung học Khải Định (tức Trường Quốc Học Huế), đã tìm thấy một ngôi mộ hoang ở vùng đồi núi phía tây nam Huế vào năm 1941.
20 năm sau (1961), ông Lâu đã công bố kết quả cuộc tìm kiếm này trên tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn) số 99 ngày 15-2-1961 với một khẳng định gây sửng sốt: đó là lăng mộ vua Quang Trung!
Gợi ý của linh mục Cadière
“Sở dĩ tôi đi tìm lăng ngài Quang Trung là do cha Cadière, một nhà khảo cứu, đã bảo tôi: “Le tombeau de Nguyễn Huệ est dans la région montagneuse, a l’Ouest de Hue. Cherchez le et vous en ferez une étude”. Dịch ra tiếng Việt như sau: Lăng Nguyễn Huệ ở trong miền núi, phía tây thành phố Huế. Ông hãy đi tìm lăng ấy và ông sẽ khảo cứu”.
Tại vùng đồi gần lăng Khải Định, giáo sư Lâu đã tìm thấy một ngôi mộ hoang bị đào bới, bao quanh là ba vòng thành, có một tấm bia bằng đá bị ai đó dùng búa rập lên các chữ Hán. Giáo sư Lâu khẳng định đây là lăng vua Quang Trung đã bị vua Gia Long cho đào bới, đập phá.
|
Lăng Ba Vành với ngôi mộ hình mai rùa. Ba vòng thành bao quanh đã bị cây bụi phủ kín |
Bài báo được viết theo kiểu bút ký nên không đưa ra các phân tích, đối chiếu tư liệu. Vì vậy, hơn hai tháng sau, cũng trên tạp chí Bách Khoa (số 101 ngày 1-4-1961), tác giả Bửu Kế - bấy giờ là quản thủ thư viện Viện Đại học Huế (sau này là một nhà Huế học rất nổi tiếng) - đã phản biện bằng bài báo “Từ lăng Sọ đến lăng Ba Vành”.
Số là sau khi đọc bài báo của nhà nghiên cứu Nguyễn Thiệu Lâu, ông Bửu Kế đã đi khảo sát các lăng mộ ở phía tây nam Huế, trong đó có lăng Ba Vành và xác định: ở Huế không có lăng của triều Tây Sơn.
Điều khiến người ta lưu ý nhất là việc tác giả Bửu Kế đã tìm thấy trong tu viện Thiên An, nơi cất giữ toàn bộ tư liệu của linh mục L.Cadière (trước khi ông qua đời năm 1955), một tài liệu quan trọng liên quan đến lăng Ba Vành.
Ba Vành là lăng của Ý đức hầu Lê Quang Đại?
Tài liệu quan trọng mà tác giả Bửu Kế tìm thấy là lá thư của linh mục L.Cadière gửi ông R.Orbanb - bấy giờ là quan hội lý Bộ Hộ (một chức quan cai trị của người Pháp làm việc trong Bộ Hộ của triều Nguyễn), trợ bút của tạp chí B.A.V.H - nhờ xác minh: ai là người được chôn trong lăng Ba Vành; vì sao có việc đào và đốt người dưới mộ, đập phá bia; ngôi mộ sau này đưa vào đó là của ai?
Ông R.Orbanb yêu cầu Bộ Lễ triều Nguyễn xác minh và bộ này đã trả lời bằng phúc thư, cho biết đã giao phủ Thừa Thiên hỏi làng Cư Chánh (địa bàn tọa lạc lăng Ba Vành). Lý trưởng làng Cư Chánh trả lời: vào năm Thành Thái 13 (1901), lý trưởng của làng là ông Nguyễn Bút đã cho phép ông Vũ Bá Khương, một vị quan của Cơ mật viện triều Nguyễn, đưa người thân của mình vào chôn ở đó (tức ngôi mộ nhỏ mới chôn sau này, nằm phía trước ngôi mộ bị đào - PV).
Ông Khương khai lăng Ba Vành nguyên là của vị quan thượng thư Hộ Bộ kiêm Binh Bộ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, tên là Lê Quang Đại, tước hiệu Ý đức hầu, người làng Đồng Di (huyện Phú Vang).
Từ các tư liệu này, tác giả Bửu Kế đi đến kết luận: “Ta tạm tin rằng lăng Ba Vành không phải là lăng của vua Quang Trung”. 13 năm sau, trên tạp chí Đại Chúng số 1-1974, tác giả Lê Văn Hoàng (thư ký hội đồng kiểm kê, sắp xếp văn thư của nội các triều Nguyễn thời Bảo Đại) lại tiếp tục “Nói về lăng Ba Vành”. Bài báo này tiếp tục khẳng định: “Ngôi mộ (Ba Vành) chắc chắn trăm phần trăm không phải là mộ của vua Quang Trung”.
Với lời khẳng định “chắc như đinh đóng cột” của hai học giả uy tín về lăng Ba Vành, tưởng rằng việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung phải chuyển sang hướng khác. Nhưng không phải như vậy!
Lời giải đầu tiên về lăng Ba Vành
Năm 1975, ngay sau ngày giải phóng, kỹ sư lâm học Nguyễn Hữu Đính - chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TP Huế - đã trở lại khảo sát lăng Ba Vành mà theo lời ông là “có vị trí, hình dáng và quy mô rất kỳ lạ”. Đến thời điểm này đã có bảy bài báo viết về lăng Ba Vành, nhưng có đến sáu bài phủ nhận là lăng Quang Trung. Điều đó lại thôi thúc ông Đính vào cuộc một cách quyết liệt và bài bản hơn.
Niềm tin của ông Đính nhân lên khi ông gặp được một nhân chứng rất quan trọng, đó là cụ Hoàng Viếng - thư ký riêng của linh mục L.Cadière vào những năm cuối đời. Cụ Viếng cho biết một lần vào năm 1955, linh cảm vị linh mục này sắp ra đi, ông Viếng đã hỏi: “Thưa cha, người ta nói lăng Ba Vành là lăng Quang Trung phải không?”.
|
Công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Hữu Đính |
L.Cadière trả lời: “Phải, phải”. Độ một tháng sau thì L.Cadière qua đời (6-7-1955, tại Huế, thọ 86 tuổi). Ngày 17-4-1986, ông Đính hoàn tất công trình khảo cứu “Lăng vua Quang Trung ở đâu? Lăng Ba Vành ở làng Cư Chánh, Huế có phải là lăng vua Quang Trung không?”.
Một ngày đầu năm 2016, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan cho chúng tôi xem bản thảo công trình nghiên cứu của thân phụ mình. Tác giả Nguyễn Hữu Đính đi đến kết luận: lăng Ba Vành không phải của vị quan có tên Lê Quang Đại.
Bởi vì quy mô lăng của một vị quan Hộ Bộ kiêm Binh Bộ không thể lớn hơn cả lăng các chúa Nguyễn, cũng như các vị quan đương thời có chức tước to hơn ông ta. Lăng Ba Vành là một ngôi lăng ngụy trang.
Theo ông Đính, ý đồ ngụy trang thể hiện qua việc sửa ngày tháng, niên hiệu phụng lập lăng ghi trên bia, khiến người ta tin rằng đó là lăng của Ý đức hầu Lê Quang Đại. Lăng Ba Vành chính là lăng của vua Quang Trung. Vua Gia Long khi chiếm lại ngôi từ nhà Tây Sơn đã cho quật mồ, lấy xác vua Quang Trung lên để trừng trị. Dấu vết ngôi mộ bị đào bới vẫn còn ở lăng Ba Vành.
Ông Đính còn đưa ra một phát hiện mới. Đó là các bài thơ của Ngô Thì Nhậm - một vị quan cận thần của vua Quang Trung - có một câu trong bài Cảm Hoài nhắc đến: “Đan Dương cung điện nhật tam thu”, một bài khác có tựa đề Khâm vãn Đan Dương lăng.
Như vậy, theo ông Đính, lăng vua Quang Trung có tên là Đan Dương. Đan Dương lăng chính là lăng Ba Vành. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan cho biết ông Đính đã gửi bản thảo công trình nghiên cứu lăng Ba Vành đến các cơ quan chức năng. Nhưng ông không nhận được một phúc đáp nào cả cho đến khi qua đời năm 1995.
Lăng Ba Vành không phải của Lê Quang Đại
Có một thầy giáo vật lý đã gác hết mọi việc để lao vào giải bài toán Ba Vành mà anh gọi là “phương trình nửa thế kỷ”. Đó là thầy Trần Viết Điền, giảng viên khoa vật lý Trường đại học Sư phạm Huế.
Năm đó (1986), sau khi hoàn thành công trình nghiên cứu lăng Ba Vành và gửi đi các nơi, cụ Nguyễn Hữu Đính nhắn Trần Viết Điền đến gặp và trao tập nghiên cứu cho anh đọc.
Không ngờ công việc nghiên cứu lăng vua Quang Trung đã khiến anh giảng viên vật lý theo đuổi cho đến tận hôm nay. Nếu công trình của cụ Đính rơi vào im lặng, thì lời giải Ba Vành của Trần Viết Điền lại tạo ra nhiều cuộc tranh luận nảy lửa.
Sau khi đọc xong công trình của cụ Đính, Trần Viết Điền đã tiến hành các cuộc nghiên cứu thực địa lăng Ba Vành, thuê người phát quang cây cối, vạch tìm từng viên đá, từng dấu vết hiện trạng.
Trần Viết Điền đồng ý với lập luận của cụ Đính: lăng Ba Vành không thể của ngài Lê Quang Đại, vì một vị quan của chúa Nguyễn không thể làm lăng to lớn hơn cả lăng chúa; về phong thủy, hướng huyệt mộ, quy mô, kiến trúc, trang trí, bia mộ... đều mang đặc điểm của lăng mộ đế vương
|
Nhà nghiên cứu Trần Viết Điền thuyết minh về tấm bia đã bị đục sửa ở lăng Ba Vành |
Tuy nhiên, Trần Viết Điền không đồng ý với cụ Đính ở lập luận: triều Tây Sơn đã ngụy trang lăng vua Quang Trung thành lăng Lê Quang Đại. Một triều đại lừng lẫy như Tây Sơn không thể làm cái việc trái khoáy đó.
Trần Viết Điền đặt vấn đề: nếu không ngụy trang thì dứt khoát ngài Lê Quang Đại phải có một cái lăng ở chỗ khác. Hay nói cách khác, muốn xác định lăng vua Quang Trung thì phải đi tìm lăng Ý đức hầu Lê Quang Đại.
Năm 1988, Trần Viết Điền đã tìm thấy trong khuôn viên của đình làng Xuân Hòa (xã Hương Long, TP Huế) có một ngôi mộ có kiến trúc đồng đại với hàng chục ngôi mộ của các vị quan thời chúa Nguyễn.
Cụ thể có hai vòng thành, một bia đá có dòng văn tự khắc rõ nét: “Bổn thổ Hộ Bộ kiêm Binh Bộ hành hạ Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ Lê Quý Công chi mộ”.
Rà soát thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, có bốn vị quan Hộ Bộ kiêm Binh Bộ, trong đó có ngài Lê Quang Đại. Trần Viết Điền cho rằng lăng của ngài Lê Quang Đại chính là đây.
Chuyên gia về Tây Sơn Đỗ Bang (lúc đó giảng dạy ở khoa lịch sử Trường đại học Tổng hợp Huế) và chuyên gia Hán - Nôm Trần Đại Vinh (giảng viên khoa văn Trường đại học Sư phạm Huế) đều bác bỏ lập luận này.
Một cuộc tranh luận nảy lửa diễn ra giữa Trần Viết Điền và hai nhà nghiên cứu này. Hội thảo “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” do UBND TP Huế chủ trì vào ngày 22-9-1988 đã kết luận: lăng Ba Vành chưa rõ chủ nhân, đề nghị tiếp tục nghiên cứu.
|
Sơ đồ lăng Ba Vành do nhà nghiên cứu Trần Viết Điền vẽ |
Lăng Ba Vành đã bị trừ yểm?
Một ngày cuối năm 2015, chúng tôi cùng nhà nghiên cứu Trần Viết Điền trở lại khu lăng mộ đã cuốn hút ông suốt 30 năm qua. Ngôi lăng Ba Vành được nhắc đến suốt hơn nửa thế kỷ, giờ lau sậy bụi bờ đã bao phủ. Nhưng đứng từ xa đã nhìn thấy quy mô khá lớn của lăng.
Hiện trạng cho thấy ngôi lăng có ba vòng thành hình móng ngựa. Cổng tam quan dẫn vào lăng đã bị sụp đổ, chỉ còn lại hai trụ lớn. Cấu trúc khu lăng có đầy đủ các yếu tố phong thủy: tả long - hữu hổ (rồng chầu bên trái, hổ phục bên phải), tiền trì - hậu chẩm (trước có hồ, sau có gò đất để gối lên).
Ông Điền chỉ vào hồ nước trước mặt lăng đã bị bồi lắng qua thời gian nhưng vẫn còn nhìn thấy hình dạng như nửa hình tròn.
“Chỉ lăng vua hoặc mẹ vua mới được phép có tân nguyệt trì tức hồ trăng non và cổng vào lăng là tam quan, còn lại thì chỉ một cửa. Hướng chính của huyệt mộ này là hướng đế vương.
Quy mô của lăng lớn hơn hẳn tất cả các lăng chúa Nguyễn. Hãy quan sát toàn cảnh, sẽ thấy phong thủy này không thể của một người bình thường được” - ông Điền say sưa thuyết minh.
Đi vào trong lăng, thấy có một ngôi mộ đắp hình mai rùa đã bị vạt một mảng lộ ra một hố như dấu hiệu của sự đào bới.
“Không phải người ta đào lấy hài cốt đâu, vì hố đào rất nhỏ và cạn. Đây là một trong những dấu hiệu của việc trấn yểm. Một cách phá hủy khôn ngoan hơn mà người xưa thường hay làm” - ông Điền nói và chỉ cho chúng tôi xem những dấu trấn yểm khác trên tấm bia đá trước mộ.
Góc trái phía trên tấm bia đã bị chém đứt. Trên mặt bia, phía trái dòng lạc khoản (dòng chữ nhỏ viết tên họ, ngày tháng trên các bia, bức họa hay đối trướng) có khắc một chữ La (thiên la địa võng), trên đầu bia lại đục hình một lưỡi mác nhỏ.
Ông Điền nói đó là dấu hiệu yểm trừ, có nghĩa là “đã bắt được”.
Không bỏ cuộc
Những lập luận và phân tích của ông Điền vẫn chưa thể thuyết phục giới chuyên môn, khiến ông quyết tâm cao độ hơn.
Ông tiếp tục trở lại làng Đồng Di, nơi được cho là quê hương của ngài Lê Quang Đại, để tiếp tục chứng minh vị quan này có lăng mộ ở làng Xuân Hòa.
Ông chỉ ra những điểm mâu thuẫn, sai lệch, mơ hồ trong việc đưa vào lăng Ba Vành một ngôi mộ mới, đắp lên tấm bia đá nguyên gốc một lớp vữa và ghi lại nội dung khác.
Ông cho rằng bộ hồ sơ về Ý đức hầu Lê Quang Đại (mà các nhà nghiên cứu trước đó dẫn ra) là hồ sơ giả, khớp với tấm bia đá giả, và những dấu hiệu bất thường trên mộ, bia và cửa tam quan bị phá...
Các ý kiến của ông Điền trên các diễn đàn đều bị phản bác quyết liệt, thậm chí phủ nhận toàn bộ. Ông quyết định chứng minh bằng phương pháp khảo cổ học.
“May mắn cho tôi, mới đây các đồng nghiệp vật lý báo tin Viện Khoa học vật liệu đã nhập được máy đo niên đại bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang quang phổ, với sai số 5%. Tôi sẽ dành số tiền dành dụm cuối đời cho việc này”.
Tuy nhiên, ông Điền nói trước khi làm việc đó thì cần phải thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ học khu lăng mộ Ba Vành, mà việc này cá nhân ông không thể làm được.
Trong các cuộc hội thảo về lịch sử tại Huế, ông Điền luôn tha thiết đề nghị GS Phan Huy Lê cho thực hiện một cuộc khai quật lăng Ba Vành, nhưng GS Lê vẫn im lặng một cách rất thận trọng.
“Chỉ cần một cuộc khai quật là mọi chuyện sẽ rõ ngay, vì mọi bí ẩn đều đang nằm dưới đó. Nếu không phải là lăng vua Quang Trung thì sẽ giúp nhiều người an lòng mà chuyển sang hướng tìm kiếm khác!” - ông Điền nói như thể là lời cuối cùng.
Ông Điền đã mất nhiều công sức để rà soát tấm bia và phát hiện người ta dùng búa để sửa “Cảnh Thịnh nguyên niên tứ nguyệt” (tháng tư năm Cảnh Thịnh thứ nhất, tức năm đầu tiên vua Quang Toản lấy niên hiệu Cảnh Thịnh 1793, tạo lập lăng vua cha) bị sửa thành “Cảnh Hưng thất niên tứ nguyệt”, tức năm 1746 là năm mất của Lê Quang Đại.
“Phải chăng vua Gia Long đã cho làm việc đó thay vì cho đập phá bình địa thì vẫn để lại một đống đổ nát. Chỉ cần vài nhát búa sửa lên văn bia là sẽ tạo ra một sự sai lệch, xem như đã bị xóa bỏ tận gốc” - ông Điền giải thích.
|