Hợp tác trên Biển Đông theo đúng UNCLOS 1982, Trung Quốc có dám?

Thứ bảy - 22/09/2018 23:11
Nếu yêu sách ranh giới biển và thềm lục địa nào không dựa vào các tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 thì đương nhiên không được xem xét.
Hợp tác trên Biển Đông theo đúng UNCLOS 1982, Trung Quốc có dám?

 

 

Tại kỳ họp lần thứ 11 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đề xuất rằng, cách tốt nhất để kiểm soát bất đồng trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc là cùng hợp tác để khai thác.

Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều 20/9, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam về đề xuất nói trên, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam bà Lê Thị Thu Hằng nêu rõ:

“Việt Nam hoan nghênh hợp tác giữa các quốc gia, trong đó có các hợp tác về biển.

Trên thực tế, Việt Nam đã có hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia khác, trong đó có Trung Quốc, với nhiều hình thức khác nhau từ hoạt động y tế cho đến nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm trên biển…”.

Bởi vì “Chủ trương nhất quán của Việt Nam là ủng hộ, hợp tác trên biển theo đúng các quy định và chế định của công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, phù hợp với quyền và lợi ích của Việt Nam, cũng như tôn trọng quyền và lợi ích của các bên liên quan”.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (Ảnh: vov.vn).


Quan sát phản ứng của dư luận, chúng tôi thấy rằng, sau khi nghe nội dung tuyên bố lần này của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, hầu hết đều bày tỏ sự đồng tình và ủng hộ rất cao.

Bởi lẽ, có thể nói đây là một trong những tuyên bố có nội dung chính trị, pháp lý chặt chẽ, hoàn chỉnh nhất;

Tuyên bố này phản ánh một cách cô đọng chủ trương nhất quán của Nhà nước Việt Nam, đáp ứng được ý chí và nguyện vọng của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Là những người thường xuyên theo dõi, nghiên cứu về tình hình Biển Đông, dưới ánh sáng của Công pháp Quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, xin được cung cấp thêm thông tin để bạn đọc Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng có thêm một lần nữa, trao đổi để hiểu rõ hơn nội hàm của Tuyên bố nói trên, định hướng cho cách ứng xử và hoạt động của chúng ta trước những diễn biến phức tạp của tình hình Biển Đông.

Tiến sĩ Trần Công Trục. Ảnh do tác giả cung cấp.


Hợp tác trên biển theo đúng quy định và chế định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982

Giải pháp tạm thời có ý nghĩa thực tiễn:

Trong quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ đất liền và trên biển giữa các quốc gia, trước khi đạt được một kết quả cuối cùng, một “giải pháp tạm thời” có thể được các bên liên quan tính đến để thỏa thuận áp dụng.

Nhưng, “giải pháp tạm thời” này không làm ảnh hưởng hay có tác động gì đến kết quả của quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan.

Tuy vậy, trong thực tiễn, cách hiểu và vận dụng giải pháp này như thế nào vẫn còn có những nhận thức khác nhau..., đặc biệt là những nội dung pháp lý, chính trị nhạy cảm có liên quan đến vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia, nhất là vấn đề tranh chấp về ranh giới biển và chủ quyền đối với các hải đảo.

Chẳng hạn, tại Điều 74 và Điều 83 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, qui định về việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia ven biển nằm kề hoặc đối diện nhau đã ghi rõ:

“Trong khi chờ ký kết thỏa thuận nói ở Khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này.

Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng”. (Khoản 3).

Trong thực tế, vận dụng quy định này của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, các quốc gia ven biển đã thỏa thuận áp dụng giải pháp “Hợp tác phát triển (khai thác) chung” (Joint-development) ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn, gọi tắt là “vùng chồng lấn” (“over-lapping area”).

Cụ thể là, các quốc gia ven biển nằm đối diện hay kế cận nhau, khi xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và tùy theo khoảng cách bờ biển của các nước nằm đối diện hay kế cận nhau đã tạo ra vùng nội thủy chồng lấn, vùng lãnh hải chồng lấn, vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và thềm lục địa chồng lấn.

Bài học cho Việt Nam trong đàm phán với Trung Quốc về Biển Đông

 

Tình trạng này mỗi khi chưa được các bên liên quan tiến hành đàm phán hoạch định ranh giới rõ ràng thì được xếp vào loại tranh chấp biển cần giải quyết giữa các quốc gia ven biển có liên quan.

Loại tranh chấp này có nguyên nhân xuất phát từ việc giải thích và áp dụng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.

Đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về địa - chính trị, địa - kinh tế trên phạm vi toàn thế giới với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ra đời.

Kết quả là trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp về ranh giới biển, thềm lục địa cần được hoạch định, trong đó khu vực Đông nam Châu Á có khoảng 15 tranh chấp.

Tất nhiên, người ta không tính đến tranh chấp được tạo thành bởi yêu sách không dựa vào các quy định của UNCLOS 1982 hoặc cố tình giải thích sai UNCLOS 1982 để phục vụ cho tham vọng chính trị của mình.

Chẳng hạn, đường biên giới “lưỡi bò” của Trung Quốc là yêu sách đã bị lên án và bác bỏ bởi hầu hết các quốc gia trong khu vực và quốc tế, do tính chất phản khoa học và hoàn toàn đi ngược lại các tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.  

Như vậy, nếu yêu sách ranh giới biển và thềm lục địa nào không dựa vào các tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 thì đương nhiên không được xem xét để áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung” rất thiết thực này .

“Hợp tác phát triển (khai thác)” vùng chồng lấn, khác với “gác tranh chấp cùng khai thác”

Về vấn đề này, chúng ta nên phân biệt giữa nội dung giải pháp tạm thời hợp tác khai thác chung vùng chồng lấn, theo UNCLOS 1982 với chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” do Trung Quốc đề xướng và theo đuổi từ trước đến nay.

Để từng bước áp đặt chủ trương “chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp cùng khai thác”, bước đầu Trung Quốc đặt mục tiêu buộc các bên liên quan phải đồng ý sử dụng đường “lưỡi bò” làm ranh giới “vùng chồng lấn” để “khai thác chung”.

Nếu chấp nhận đòi hỏi này đồng nghĩa với việc Trung Quốc bước đầu đã thành công với chủ trương “biến không thành có”, biến “vùng không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp”;

Và từ đó, họ sẽ tiến tới khống chế và độc chiếm Biển Đông theo đúng chiến lược mà họ đang theo đuổi với rất nhiều thủ thuật, thủ đoạn khác nhau…

Mục tiêu và ý nghĩa thực sự của COC với Biển Đông

 

Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 không quy định áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác cùng khai thác” cho tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thổ giữa các quốc gia liên quan.

Đây là một loại tranh chấp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này.

Theo luật pháp và thực tiễn quốc tế hiện hành, giải pháp tạm thời trong quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thổ hay phân định biên giới quốc gia trên đất liền thường được vận dụng là “giữ nguyên hiện trạng”.

Thực chất, đây chính là nguyên tắc Status- quo.

Liên quan đến giải pháp tạm thời theo nguyên tắc Status- quo, Việt Nam và Trung Quốc cũng đã vận dụng thành công giải pháp tạm thời này cho quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa 2 nước.

Hợp tác trên biển phù hợp với quyền và lợi ích của Việt Nam, cũng như tôn trọng quyền và lợi ích của các bên liên quan

Theo quy định của UNCLOS 1982 trong Biển Đông, các quốc gia ven biển có các quyền bao gồm chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, các quốc gia lục địa ven biển và quốc gia quần đảo có quyền thiết lập và công bố hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mình theo đúng quy định của các Điều 5, 6, 7, 47, UNCLOS 1982.

Tuy nhiên, có một nội dung dễ bị cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định hiện hành của UNCLOS 1982 là hiệu lực của các thực thể địa lý trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS 1982.
 

Trung Quốc dùng chiêu gì đi nữa, cũng không thể biến “lưỡi bò” thành “lưỡi hổ"

 

Cụ thể là các thực thể cấu thành quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam (Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa).

Trước hết, phải nói ngay rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa không phải là “quốc gia quần đảo”.

Cho nên, theo UNCLOS 1982, không được phép xác định hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ở các quần đảo này như đối với “quốc gia quần đảo” theo cách mà Trung Quốc đã vận dụng để công bố đường cơ sở ở quần đảo Hoàng Sa năm 1996, bằng cách nối các điểm nhô ra nhất và bao lấy toàn bộ quần đảo này như là một thể thống nhất.

Theo đó, Trung Quốc đã công khai xác nhận họ sẽ làm điều tương tự cho các quần đảo khác trong Biển Đông, bao gồm quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ gọi là Nam Sa vào lúc thích hợp.

Việc làm này được các chuyên gia pháp lý khẳng định rằng, Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Vậy thì hiệu lực trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng sẽ được tính như thế nào? 

Theo quy định của UNCLOS 1982, các thực thể địa lý là các đảo theo đúng định nghĩa của Điều 121, nếu nằm cách bờ biển quá 12 hải lý thì được phép xác định đường cơ sở cho từng đảo.

Trên cơ sở đó, xét từ nguyên thủy nếu đảo đó quá nhỏ bé, không thích hợp cho sự tồn tại của cộng đồng và không có đời sống kinh tế riêng thì chúng chỉ có lãnh hải không quá 12 hải lý.

Còn đảo nào thích hợp cho đời sống con người và có đời sống kinh tế riêng thì được quyền mở rộng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và vùng thềm lục địa riêng cho từng đảo đó.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia pháp lý, các nhà khoa học địa chất, địa mạo và đặc biệt là Phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế ngày 12/7/2016, thì hầu hết các đảo trong các quần đảo ở giữa Biển Đông, nếu xét từ nguồn gốc xuất xứ của chúng khi chưa có sự cải tạo của con người, thì chúng không thể có hiệu lực để mở rộng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.

Chúng chỉ có lãnh hải tối đa không quá 12 hải lý mà thôi. Còn các thực thể địa lý là các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm thì sao?

Nếu chúng nằm cách bờ biển đất liền hay bờ biển của một đảo, một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải thì chúng được dùng làm điểm cơ sở để thiết lập hệ thống đường cơ sở thẳng, với điều kiện ở trên đó có xây các ngọn hải đăng hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước (Khoản 4, Điều 7).

Nếu các thực thể này nằm ngoài ranh giới lãnh hải đất liền hoặc của một đảo, thì chúng không có lãnh hải riêng, có nghĩa là chúng không được hưởng quy chế đảo theo định nghĩa tại Điều 121, UNCLOS 1982.

Và như vậy thì chúng được coi là một bộ phận cấu thành của vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển hay của một đảo.

Nếu những thực thể này nằm ở trong vùng biển cả (high sea) hay nằm trên đáy và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài giới hạn thềm lục địa của quốc gia ven biển hay của một đảo, nghĩa là nó ở trên một phạm vi được gọi là “Vùng” (“zones” quy định tại Phần XI, UNCLOS 1982) thì các bãi cạn lúc nổi lúc chìm này là tài sản chung của nhân loại. 

Mọi hoạt động có liên quan đến các thực thể này cũng phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của UNCLOS 1982 và thuộc quyền hạn của Cơ quan quyền lực (Autority) quốc tế do Liên Hợp Quốc lập ra.

Như vậy, không có ai được quyền chiếm hữu, biến chúng thành lãnh thổ của riêng mình.

Nếu các thực thể này nằm trên thềm lục địa của quốc gia ven biển thì các quốc gia này có quyền xây dựng các đảo nhân tạo hay các công trình nhân tạo phục vụ cho công việc thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đó và chỉ được phép có một vùng an toàn xung quanh chúng có chiều rộng 500 m.

Từ những phân tích nói trên, chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc có thể được các bên liên quan tôn trọng chỉ nằm ở vùng biển có chiều rộng không quá 200 hải lý tính từ hệ thống đường cơ sở ven bờ đảo Hải Nam và ven bờ lục địa phía Đông Nam mà Trung Quốc đã công bố.

Tất nhiên, ranh giới vùng biển ở phía ngoài cửa vịnh Bắc Bộ còn phải được hoạch định do còn có vùng chồng lấn mà hai bên Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình đàm phán.

Như vậy có thể thấy rằng, tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao mà chúng tôi dẫn phía trên đây rất chặt chẽ về chính trị lẫn pháp lý, đồng thời cũng tỏ rõ thiện chí của Việt Nam muốn giải quyết các vấn đề trên biển một cách hòa bình và thượng tôn pháp luật.

Vấn đề còn lại là liệu Trung Quốc có tôn trọng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, luật pháp và thực tiễn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ trên Biển Đông hay không mà thôi.

Những nội dung cần chú ý khi xác lập và đàm phán hoạch định ranh giới biển với Trung Quốc nếu họ sẵn sàng tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 cũng như bài học của Việt Nam, chúng tôi xin trình bày trong nửa sau của bài viết này.

Tác giả bài viết: Tiến sỹ Trần Công Trục

Nguồn tin: Theo Giaoduc.net.vn:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây