Vi phạm tố tụng
Theo Cáo trạng của Viện KSND thành phố Tuy Hòa và Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2015/HSST ngày 15/4/2015 của TAND thành phố Tuy Hòa, từ tháng 01/2005 – 5/2012, lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao, bị cáo Đào Chí Vũ – Trưởng ban QLC đã thực hiện không đúng nguyên tắc tài chính – kế toán, để tiền phí thu được ngoài sổ sách và chiếm đoạt 146.961.333 đồng, bao gồm các khoản thu phí nhà vệ sinh; nhà giữ xe máy, xe đạp; và khoản thu phí xe vào bến ban đêm.
Tuy nhiên chứng cứ để truy tố và buộc Đào Chí Vũ đã thu và chiếm đoạt số tiền trên, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai của những người nhận khoán thu phí, gồm: ông Nguyễn Trái, ông Vương Văn Thái, bà Hà Thị Nhung và nhân viên BQL bến xe… (tức người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), ngoài ra không còn tài liệu hay chứng cứ nào khác.
Sau khi Bản án sơ thẩm tuyên, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như ông Nguyễn Phúc, ông Thái, ông Trái đồng loạt “tố” cơ quan điều tra Công an vi phạm tố tụng. Rằng, họ “không có mặt vào các ngày 16/01/2013, 19/01/2013; 04/3/2013 và ngày 9/04/2013, không thấy Vũ đối chiếu số liệu mà chỉ thấy Công an gọi vào ký biên bản, không biết nội dung gì ?”. Còn bị cáo Đào Chí Vũ phản cung cho rằng điều tra viên viết sẵn giấy xác nhận rồi bảo bị cáo viết lại, chứ thực tế Vũ “không thu tiền của người nhận khoán, nên không chiếm đoạt”.
Đề cập đến nghiệp vụ điều tra của Cơ quan CSĐT Công an TP. Tuy Hòa, Bản án phúc thẩm số 84/2015/HSPT ngày 28/8/2015 nhận xét: “Lẽ ra sau khi những người có quyền lợi liên quan ký tên vào biên bản xác nhận việc đối chiếu số liệu với Vũ thì Cơ quan điều ra phải yêu cầu họ viết biên bản xác nhận hoặc bản tự khai nêu rõ lý do tại sao họ biết Vũ làm thất thoát số tiền như biên bản đã xác nhận để làm căn cứ đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo”.
Cũng theo cấp phúc thẩm, do nghiệp vụ điều tra “có vấn đề” nên tại cấp phúc thẩm, ông Phúc và ông Thái có lời khai ngược lại, trước sau không thống nhất, không đủ độ tin cậy vững chắc và mâu thuẫn với lời khai của Đào Chí Vũ. Do đó “không đủ cơ sở để quy kết ngay Vũ chiếm đoạt số tiền 146.961.333 đồng như cấp sơ thẩm đã xác định”.
Bỏ lọt tội phạm ?
Theo lời khai của những người nhận khoán, ngoài nộp tiền phí trực tiếp cho ông Vũ, có một số lần đến BQL không gặp Vũ nên họ đã nộp tiền cho kế toán Ngô Thị Liên Thương và thủ quỹ Quách Đình Nhị. Bà Thương và ông Nhị cũng xác nhận có 2-3 lần thu tiền phí của những người nhận khoán. Tuy nhiên Cơ quan điều tra không làm rõ kế toán và thủ quỹ “đã thu phí của những ai, bao nhiêu lần, mỗi lần bao nhiêu tiền và có nộp lại cho Vũ không ?”.
Quy trình thực hiện việc thu phí được thực hiện khá chặt chẽ: Hàng tháng nhân viên kế toán BQL đến Chi cục Thuế để mua biên lai có mệnh giá về phát hành, cuối tháng nộp tờ khai phí, lệ phí tại phòng một cửa và đối chiếu biên lai tại phòng ấn chỉ. Do đó, theo Luật sư Vũ Xuân Hải (Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên), không thể quy kết một mình Đào Chí Vũ tự tung tự tác chiếm đoạt số tiền hay cố ý làm trái các quy định của Nhà nước để gây hậu quả.
Trong khi đó, theo nhận xét của HĐXX phúc thẩm, từ năm 2005 – 11/2011, trong vai trò là kế toán BQL bến xe, bà Thương biết rất rõ bị cáo Vũ thu tiền phí bỏ ngoài sổ sách, sử dụng cá nhân nhưng vẫn lập báo cáo quyết toán hàng năm, nghĩa là không phản ánh đầy đủ các khoản thu theo nguyên tắc tài chính.
Như vậy hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo Vũ, chứng tỏ có sự thông đồng của kế toán Thương và thủ quỹ Nhị, trừ phi nghiệp vụ yếu. Theo đó, cấp phúc thẩm cho rằng, hành vi của bà Thương có “dấu hiệu đồng phạm với bị cáo Vũ”. Thế nhưng kết luận điều tra, truy tố của các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã bỏ qua không làm rõ vai trò, trách nhiệm của 2 nhân viên này.
Ngoài ra theo cấp phúc thẩm, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm phân công nhiệm vụ cho nhân viên của BQL bến xe thuộc Trưởng phòng Quản lý đô thị hay của Trưởng BQL “để có cơ sở xem xét trách nhiệm của kế toán BQL bến xe, Trưởng phòng QLĐT đối với việc để xảy ra thất thoát tiền thu phí của Nhà nước”…
Theo đó ngày 28/8/2015, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 43/2015/HSST của TAND thành phố Tuy Hòa xét xử, giao hồ sơ cho VKSND thành phố Tuy Hòa giải quyết lại theo thẩm quyền.
Cần xem xét lại bản án !
Do không đủ cơ sở để kết luận bị cáo Vũ đã chiếm đoạt số tiền thu phí để tiêu xài cá nhân, nên tại Bản kết luận điều tra 89/KLĐT-KT ngày 16/10/2016, Cơ quan CSĐT Công an TP.Tuy Hòa đã đề nghị truy tố thay đổi tội danh từ tội Tham ô tài sản đối với bị cáo Vũ thành tội danh Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, được quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình. Tổng số tiền mà bị cáo Vũ gây thiệt hại cho Nhà nước cũng được xác định lại còn 135.323.333 đồng (giảm 11.638.000 đồng).
Tuy nhiên theo Luật sư Vũ Xuân Hải (Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên), việc quy kết số tiền mà bị cáo Vũ gây thất thoát của Nhà nước sau khi xác định lại vẫn không có căn cứ. Vì thực tế tổng số tiền phát sinh từ hợp đồng nhận khoán bằng văn bản có tại hồ sơ vụ án là 288.050.000 đồng, số thu có chứng từ 204.866.000 đồng. Nghĩa là tổng số tiền mà bị cáo Vũ gây thiệt hại của Nhà nước có căn cứ là 83.184.000 đồng. Mặt khác, “cũng không có tài liệu nào chứng minh những người nhận khoán đã nộp đủ khoản tiền đã ký kết hợp đồng nhận khoán với bị cáo Vũ” – Luật sư Hải cho biết.
Liên quan đến hành vi cố ý làm trái của bị cáo Vũ, trước đó Bản án phúc thẩm đã yêu cầu cấp sơ thẩm làm rõ trách nhiệm của kế toán Ngô Thị Liên Hương có hay không có dấu hiệu đồng phạm. Thế nhưng Bản kết luận điều tra số 89 không làm rõ mà chỉ đưa ra nhận xét: “Đối với người liên quan là kế toán Ngô Thị Liên Hương và thủ quỹ Quách Đình Nhị trong quá trình làm việc đã có những thiếu sót trong hoạt động tài chính, kế toán để xảy ra thiệt hại về tài sản của Nhà nước… nên Cơ quan CSĐT CA TP. Tuy Hòa không xem xét trách nhiệm hình sự”.
Tương tự đối với Phòng Quản lý đô thị TP. Tuy Hòa – đơn vị quản lý trực tiếp BQL bến xe “để xảy ra tình trạng hoạt động kém hiệu quả, gây thất thoát tài sản của Nhà nước trong thời gian dài (2005 – 2012) cũng có một phần trách nhiệm”, Cơ quan CSĐT cũng kiến nghị tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm, chấn chỉnh công tác quản lý.
Ngoài ra các yêu cầu khác của Bản án phúc thẩm, như: Làm rõ từng loại phí BQL đã thu, nộp kho bạc Nhà nước; số tiền thu được bỏ ngoài sổ sách kế toán; tổng số tiền đã thu phí, tổng số tiền đã chi, trong đó chi lương là bao nhiêu, lấy từ nguồn nào chi ?... cũng chưa được Cơ quan điều tra làm rõ.
Đặc biệt là số tiền 79.671.965 đồng còn trong tài khoản của BQL bến xe tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước (được Bản án sơ thẩm số 43 xác định được hình thành chủ yếu từ khoản nộp gộp phí bến xe, qua 14 lần, trong khoảng thời gian (từ 01/01/2012 – 12/6/2012) bị cáo Vũ điều hành quản lý), không được các cơ quan tố tụng xem xét, làm rõ. Theo Luật sư Hải, nếu khấu trừ số tiền này thì số tiền gây thiệt hại của Nhà nước do bị cáo Vũ cố ý làm trái chỉ còn 3.512.035 đồng.
Từ các căn cứ trên theo các chuyên gia luật, Bản án sơ thẩm số 25/2015/HSST do TAND TP. Tuy Hòa xét xử lần 2 vào ngày 30/3/2017, trút hết tất cả tội vạ lên đầu bị cáo Đào Chí Vũ với tội danh Cố ý làm trái các quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, với mức án 2 năm tù là không thuyết phục và còn bỏ lọt tội phạm. Theo đó chưa tạo ra tác dụng tốt cho xã hội và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.
Luật sư Lê Hoài Sơn (Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định):
“Với mức án 2 năm tù giam mà Bản án sơ thẩm số 25/2015/HSST đã tuyên đối với bị cáo Đào Chí Vũ là quá nặng và chưa thuyết phục, nhiều thiếu sót mà Bản án phúc thẩm chỉ ra trước đó chưa được khắc phục”. Theo luật sư Sơn, có căn cứ để tới đây cấp phúc thẩm xem xét lại Bản án sơ thẩm và giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Vũ từ từ giam xuống tù không giam giữ, theo quy định tại Điều 46 và 47 Bộ luật Hình sự. Vì tổng số tiền bị cáo Vũ gây thiệt hại (nếu khấu trừ số tiền còn tạm giữ trong tài khoản) không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi bị truy cứu TNHS, bị cáo Vũ đã chủ động khắc phục phần lớn hậu quả (đã nộp số tiền 129.119.000 đồng); trong quá trình điều tra, bị cáo Vũ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt (cha liệt sĩ)…