Tháng 7/2020, họ thỏa thuận góp vốn cùng với ông Phạm Văn Mạnh thành lập công ty cổ phần để khai thác điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN), theo cơ chế khuyến khích của Thủ tướng Chính phủ. Dự án được triển khai trên thửa đất đứng tên quyền sở hữu hộ kinh doanh cá thể bà Lương Thị Liên (theo Giấy CNQSDĐ số CU 688362 do UBND huyện Chư Prông cấp ngày 25/9/2020; có nguồn gốc, đất nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm). Ngày 15/7/2020, Sở KH&ĐT tỉnh Gia Lai đã cấp Giấy CNĐKKD Công ty TNHH MTV Đầu tư phát triển năng lượng 35 (gọi tắt là Công ty 35) do ông Phạm Văn Mạnh làm Chủ tịch kiêm Giám đốc công ty.
Trước đó ngày 10/7/2020 (mặc dù chưa hoàn thành thủ tục pháp lý) nhưng ông Mạnh đã đứng tên Giám đốc công ty 35 ký Hợp đồng với bà Lương Thị Liên thuê mái nhà kho tại địa chỉ được UBND huyện Chư Prông cấp quyền sử dụng đất, để lắp đặt hệ thống ĐMTMN. Đến ngày 28/9/2020, ông Mạnh ký tiếp Hợp đồng thuê QSDĐ với vợ chồng bà Liên. Hợp đồng này được công chứng viên Văn phòng Công chứng Nguyễn Thanh Huy công chứng hoàn thành.
Cũng trong thời gian này, ông Mạnh ký Hợp đồng thi công với Công ty TNHH MTV Hùng Khánh Tây Nguyên (do vợ ông làm Giám đốc) thi công toàn bộ công trình. Ngày 24/01/2021, căn cứ khối lượng, giá trị thi công thực tế, 5/6 thành viên góp vốn tổ chức nghiệm thu xác nhận tổng giá trị đầu tư toàn bộ dự án (chưa bao gồm công trình nhà kho đã đầu tư) là 12,446 tỷ đồng. Tuy nhiên đến ngày 19/5/2021, ông Mạnh đại diện Giám đốc công ty đã ký quyết toán công trình với Công ty Hùng Khánh Tây Nguyên có số tiền 15,318 tỷ đồng, vượt so với số tiền các thành viên xác nhận lên tới 2,872 tỷ đồng.
Ngày 5/6/2021, Giám đốc Công ty 35 đã tổ chức cuộc họp xác nhận vốn điều lệ thực góp đến thời điểm là 5,3 tỷ đồng. Trong đó: ông Lê Văn Anh (thay thế bà Liên) góp 1.599.952.000 đồng (30,19%); ông Lực góp 850.000.000 đồng (16,04%); ông Mạnh góp 1.640.000.000 đồng (30,94%); ông Bằng 460.048.000 đồng (8,68%); bà Nguyễn Thị Hiền (thành viên mới tham gia) 750.000.000 đồng (14,15%). Tại cuộc họp này, họ và kể cả ông Mạnh thống nhất thuê Công ty Luật TNHH Thành Bảo & Cộng sự chi nhánh Gia Lai lo thủ tục chuyển đổi lên công ty cổ phần; cử ông Anh làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông Mạnh tiếp tục làm Giám đốc Công ty; và thống nhất chậm nhất đến ngày 15/6/2021, tất cả các thành viên góp vốn phải cung cấp giấy tờ cần thiết để Công ty Luật hoàn tất thủ tục chuyển đổi. Thế nhưng từ đó cho đến nay, ông Mạnh trì hoãn không thực hiện việc bàn giao giấy tờ để luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý, không công khai thu chi tài chính theo yêu cầu…
Chúng tôi mong luật sư giải đáp phân tích về cơ sở pháp lý đúng, sai khi thực hiện 2 hợp đồng dịch vụ; và cho biết căn cứ pháp luật để xác định hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân. Với những tình tiết nêu trên, chúng tôi có thể tố cáo ông Mạnh về dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của các thành viên trong việc quyết toán công trình vượt giá trị thực tế ?
Vấn đề các ông bà nhờ giải đáp pháp lý, Luật sư Lê Hoài Sơn (Đoàn Luật sư Bình Định) - phụ trách công tác bạn đọc Văn phòng đại diện Pháp lý khu vực MT&TN, trả lời như sau:
Có hay không việc ông Mạnh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của các thành viên trong việc quyết toán công trình vượt giá trị thực tế, câu trả lời thuộc về trách nhiệm Cơ quan điều tra có thẩm quyền ? Trong phạm vi của một luật sư, tôi chỉ phân tích sâu đến 2 hợp đồng giao dịch mà ông Lê Văn Anh (đại diện cho các thành viên góp vốn) khởi kiện yêu cầu hủy bỏ và đang được TAND huyện Chư Prông đang thụ lý chuẩn bị đưa ra xét xử:
1. Trước hết đối với Hợp đồng thuê mái được ký giữa Công ty 35 do ông Phạm Văn Mạnh làm đại diện và bà Lương Thị Liên là hộ kinh doanh cá thể, để lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà, có thời điểm ký trước khi Sở KH&ĐT tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận ĐKKD Công ty 35 đến 5 ngày. Theo tôi có 2 vấn đề pháp lý phát sinh từ hợp đồng giao dịch này. Một là không ổn về thời gian và chủ thể. Căn cứ vào tài liệu cho thấy, ông Mạnh đã ký Hợp đồng thuê mái với bà Liên trước 5 ngày Sở KH&ĐT Gia Lai cấp Giấy chứng nhận ĐKKD đối với Công ty 35 (cụ thể ngày 15/7/2020, Sở KH&ĐT Gia Lai cấp Giấy chứng nhận ĐKKD; ngày 10/7/2020 hai bên đã ký kết hợp đồng). Điều đó có nghĩa vào thời điểm ký kết hợp đồng, ông Mạnh chưa phải là người đại diện pháp luật của Công ty 35.
Hai là, theo quy định pháp luật hộ kinh doanh cá thể không có tư cách pháp nhân, nếu xảy ra rủi ro bà Liên phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ hộ. Trong khi đó nhà kho cho thuê mái (mặc dù bà Liên đứng tên chủ đầu tư) là tài sản của vợ chồng bà Liên và ông Anh đầu tư xây dựng trong thời kỳ hôn nhân. Hay nói cách khác, quyền sở hữu bất động sản nhà kho là tài sản của vợ chồng ông Anh bà Liên. Như vậy việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của vợ chồng là bất động sản phải được vợ chồng thỏa thuận bằng văn bản (theo quy định tại Điều 35 Luật HN&GĐ 2014). Có nghĩa trong trường hợp này, nếu chưa được sự đồng ý bằng văn bản của ông Anh mà bà Liên đã tự ý ký hợp đồng cho thuê mái với Công ty 35 là trái pháp luật.
2. Đối với hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, căn cứ nội dung đơn và các tài liệu gửi kèm theo, cho thấy tài sản quyền sử dụng đất để thực hiện DA là tài sản do Nhà nước cấp cho hộ kinh doanh cá thể đứng tên bà Lương Thị Liên. Trong Giấy chứng nhận QSDĐ ghi đất có nguồn gốc nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, nhưng vẫn được các bên ký kết cho thuê QSDĐ và hợp đồng được công chứng viên Văn phòng Công chứng Nguyễn Thanh Huy công chứng hoàn thành.
Theo tôi, việc vợ chồng ông Anh và bà Liên ký Hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất trong khi Giấy chứng nhận QSD đất số CU 688362 do UBND huyện Chư Prông cấp ngày 25/9/2020; ghi đất có nguồn gốc, nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai 2013, đất nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm, hộ gia đình không được quyền cho thuê lại. Do đó hợp đồng cho thuê QSDĐ được ký giữa vợ chồng bà Liên với Công ty 35 do ông Mạnh làm đại diện vào ngày 28/9/2020, mặc dù được công chứng viên Văn phòng Công chứng Nguyễn Thanh Huy công chứng vẫn bị coi là không phù hợp với quy định pháp luật.
Như vậy, cả 2 hợp đồng nói trên bị vô hiệu vì không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự; nội dung giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, không cho phép chủ thể thực hiện hành vi nhất định theo quy định tại Điều 117 và Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015. Hậu quả pháp lý sau khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, bắt buộc các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thiên Hân (thực hiện)
Theo https://phaply.net.vn/luat-su-le-hoai-son-vpls-trung-son-binh-dinh-co-can-cu-de-tuyen-vo-hieu-hai-hop-dong-giao-dich-a253409.html
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn