Cho mượn 300 đồng, kiện đòi 150 triệu đồng

Chủ nhật - 04/11/2018 21:04
Tòa sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện vì cho rằng nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứng minh.
Cho mượn 300 đồng, kiện đòi 150 triệu đồng

 

Cho mượn 300 đồng, kiện đòi 150 triệu đồng

TIN LIÊN QUAN


TAND huyện Cái Bè (Tiền Giang) vừa xét xử sơ thẩm vụ tranh chấp đòi tài sản giữa bà NTN (nguyên đơn) và bà NTS.

Món nợ từ 43 năm trước

Theo đơn khởi kiện, bà N. trình bày: Vào tháng 6-1975, bà có cho bà S. mượn 300 đồng. Bà S. hứa 10 ngày sau sẽ trả cho bà nhưng đến hạn bà S. không trả. Bà nhiều lần đòi, bà S. vẫn không trả, sau đó bà S. bỏ trốn, bà tìm mãi không được.

Đến năm 2017, bà N. mới tìm gặp lại bà S. Ngày 15-5-2017, bà có đến nhà bà S. để yêu cầu bà S. trả nợ và bà có ghi âm lại cuộc nói chuyện giữa hai bên.

Ngày 9-6-2017, UBND xã Hòa Hưng có mời hai bên đến hòa giải nhưng không thành. Vì vậy, bà N. khởi kiện yêu cầu TAND huyện Cái Bè buộc bà S. phải trả số tiền nợ là 300 đồng, quy đổi ra giá trị hiện nay là 150 triệu đồng. Bà N. giải thích cho việc tự quy đổi của mình rằng vào thời điểm năm 1975, bà có bán một căn nhà trị giá 300 đồng nên bà S. nợ bà 300 đồng thì nay phải trả trị giá tương đương.

Làm việc với tòa, bà S. xác định vào khoảng năm 1975, bà có nợ bà N. 100 đồng. Thời gian đã quá lâu, nay bà cũng không còn nhớ rõ sự việc này. Hiện nay 100 đồng thời điểm năm 1975 không còn giá trị nữa nên phía bà N. cho rằng bà nợ 300 đồng năm 1975 và tự quy đổi thành 150 triệu đồng là không có cơ sở. Nay vì là chỗ tình nghĩa, bà đồng ý tự nguyện trả cho bà N. 2 triệu đồng. Việc bà N. cung cấp cho tòa một đĩa ghi âm, bà xác định việc ghi âm là do bà N. tự ghi, bà hoàn toàn không biết.

Những người làm chứng là người thân của bà S. thì trình bày rằng không liên quan đến tranh chấp của hai bên, không biết gì về đoạn ghi âm mà bà N. cung cấp cho tòa.

Cho mượn 300 đồng, kiện đòi 150 triệu đồng - ảnh 1

Tòa bác yêu cầu

Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà N. là không có căn cứ chấp nhận bởi lẽ bà N. cho rằng bị đơn có nợ 300 đồng tiền Việt Nam do ngân hàng của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (gọi là Ngân hàng Nhà nước) phát hành nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứng minh. Phía bà S. chỉ thừa nhận có nợ 100 đồng, nay tiền này không còn giá trị lưu hành do đã qua nhiều kỳ đổi tiền.

Bên cạnh đó, bà N. yêu cầu bà S. trả tiền nợ và tự quy đổi ra giá trị hiện tại là 150 triệu đồng nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc quy đổi này. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà N. có yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ. TAND huyện Cái Bè đã có công văn gửi đến Ngân hàng Nhà nước hỏi rõ về vấn đề quy đổi tiền tại thời điểm năm 1975 so với thời điểm hiện tại. Trong công văn phúc đáp tòa, Ngân hàng Nhà nước đã nêu rõ: “Theo quy định pháp luật về ngân hàng, thuộc phạm vi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hiện nay chưa có quy định về mức trượt giá đồng tiền và quy đổi giá trị 300 đồng Việt Nam thời điểm 1975 ra giá trị đồng tiền hiện hành”. Do đó, việc bà N. tự quy đổi tiền là không có căn cứ xem xét.

Từ các phân tích trên, HĐXX kết luận yêu cầu khởi kiện của bà N. là không có cơ sở chấp nhận. Mặc dù tại phiên tòa, phía bà S. vắng mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, bà S. đã đồng ý tự nguyện trả cho bà N. 2 triệu đồng. Xét thấy đây là sự tự nguyện của bị đơn, phù hợp theo quy định pháp luật, có lợi cho nguyên đơn nên HĐXX ghi nhận. Mặt khác, do yêu cầu đòi nợ của bà N. không được chấp nhận nên HĐXX tuyên buộc bà N. phải chịu 7,5 triệu đồng tiền án phí, bà S. phải chịu 300.000 đồng án phí.

Chưa làm sáng tỏ vụ án?

Về mặt pháp lý, một lãnh đạo tòa chuyên trách của TAND TP.HCM (đề nghị không nêu tên) nhận xét: Tòa sơ thẩm chưa làm rõ được việc chứng minh chuyển đổi số tiền mà đã bác yêu cầu của nguyên đơn là chưa đầu tư nghiên cứu để đi đến tận cùng của vụ án.

Cụ thể, trong vụ án, bà N. phải có nghĩa vụ chứng minh là bà S. mượn 300 đồng hay 100 đồng. Nếu bà N. không có căn cứ chứng minh cho bà S. mượn 300 đồng thì tòa phải chấp nhận số nợ 100 đồng mà bà S. thừa nhận.

Tiếp đó, tòa phải làm rõ được hai yếu tố sau:

Thứ nhất, phải xác định được tỉ lệ đổi tiền cũ sang tiền mới qua các thời kỳ từ năm 1975 đến nay. Từ năm 1975 đến nay, Nhà nước ta đã trải qua hai lần đổi tiền (năm 1978 và 1985). Do đó tòa cần hỏi cơ quan chức năng (Ngân hàng Nhà nước) để xác định tỉ lệ quy đổi từ đồng tiền cũ sang đồng tiền mới.

Thứ hai, phải làm rõ được số tiền bị trượt giá từ thời điểm năm 1975 cho tới nay bằng cách có văn bản gửi Tổng cục Thống kê bởi tổng cục này có chức năng công bố tỉ lệ lạm phát hằng năm.

Từ hai yếu tố trên, tòa sẽ dùng số tiền quy đổi qua mỗi lần Nhà nước đổi tiền cộng với số tiền trượt giá thì sẽ ra con số mà bà S. phải trả cho bà N. Do đó, việc tòa sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 2 triệu đồng mà bà S. tự nguyện trả cho bà N. là chưa làm sáng tỏ bản chất vụ án.

NGÂN NGA

 

Tác giả bài viết: MINH KHÁNH

Nguồn tin: plo.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây