Dễ hiểu và dễ dịch nhất thì think tank là cái bể chứa những ý tưởng. Về từ nguyên, tank có nghĩa ban đầu là lô cốt trong quân sự. Tại khu vực được bảo vệ kiên cố này, giới tham mưu tác chiến họp bàn và tư duy (think), hoạch định các kế hoạch, vì thế được gọi là think tank.
Về sau, nghĩa của từ vượt ra khỏi khuôn khổ quân sự, lan ra các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị. Trong kinh tế, think tank là tập hợp các chuyên gia đầu ngành để tư duy về các vấn đề kinh tế, đưa ra các khuyến nghị, tư vấn, đánh giá, gợi ý, phản biện... các chính sách, thông thường là mang tính độc lập.
Những lát cắt "Tổ tư vấn" và các think tank
Với không ít người Việt Nam, think tank vẫn còn khá lạ lẫm. Nhưng nhìn lại lịch sử của các think tank kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn gần đây cũng khá thú vị.
Các think tank về kinh tế đầu tiên, có thể nói là các ban ngành của Đảng. Vào các dịp chuẩn bị cho Đại hội Đảng, vấn đề đưa vào báo cáo đại hội, cần một đội ngũ các chuyên gia hàng đầu tham gia nghiên cứu và đề xuất, vì đó là các quyết sách lớn có tầm ảnh hưởng sâu rộng.
Hình thành rõ nhất và nở rộ nhất, theo cố giáo sư Đặng Phong, trong cuốn sách Tư duy kinh tế Việt Nam, chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, (Nhà xuất bản Tri Thức), là giai đoạn từ thập niên 1980 trở đi, nhất là thời kỳ đổi mới.
Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của hàng loạt think tank từ trung ương, bộ ngành đến địa phương.
Có thể điểm một số tổ chức như Tiểu ban cơ chế mới do sáu ủy viên Bộ Chính trị luân phiên phụ trách để tiếp thu ý kiến từ các địa phương và cả một số giám đốc công ty.
Sau đó, Tiểu ban nghiên cứu giải pháp cấp bách về tài chính - tiền tệ - giá cảra đời trực thuộc Bộ Chính trị.
Nhóm nghiên cứu sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị thuộc Hội đồng Bộ trưởng, tức Chính phủ sau này.
Bộ Ngoại giao cũng lập một nhóm nghiên cứu của riêng mình.
Đến năm 1987, hình thành các nhóm nghiên cứu chống lạm phát khi vấn đề này trở nên nóng bỏng.
Thời này, có hai nhóm được hình thành, một nhóm là các chuyên gia Liên Xô, một nhóm là các nhà nghiên cứu trong nước.
Các tiểu ban, các nhóm nghiên cứu này thảo luận sôi nổi chủ đề kinh tế thị trường và giá thị trường, với cơ chế một giá hay hai giá, về kinh tế kế hoạch, vốn là những vấn đề vừa nóng bỏng, vừa bức xúc, vừa ảnh hưởng đến quốc kế dân an khi đó.
Từ Câu lạc bộ Giám đốc đến Nhóm thứ Sáu
Ở TP.HCM thời đó, một vài tổ chức think tank cũng đã hình thành do Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt tổ chức.
Đầu tiên, vào giữa năm 1980, Câu lạc bộ (CLB) Giám đốc với khoảng 100 thành viên ra đời, với lịch sinh hoạt định kỳ.
Một trong những ví dụ làm tốt của CLB Giám đốc là Xí nghiệp dệt Thành Công. Năm 1979, sản lượng vải là 4,2 triệu mét, năm sau còn 2,5 triệu mét, xí nghiệp lâm vào cảnh khó khăn.
Nhờ cơ chế vay được 180.000 USD của Vietcombank, nhập nguyên liệu về, sản xuất rồi bán. Không chỉ trả đủ vốn lẫn lời mà còn dư 82.000 USD, rồi quay vòng vốn và ngày càng phát triển.
Một trong những buổi sinh hoạt của CLB này diễn ra tại Xí nghiệp dệt Thành Công với sự tham dự của nhiều cán bộ trung ương, trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Một trong những nhóm nghiên cứu khá âm thầm trong thời gian này ở TP.HCM là nhóm của tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, cựu Thống đốc ngân hàng và có thời gian làm phó thủ tướng chế độ trước năm 1975.
Ông Oánh chính là người đứng đầu Nhóm thứ Sáu, có tên chính thức là Văn phòng kinh tế Thành ủy TP.HCM.
Nhóm này tập hợp đông đảo các chuyên gia kinh tế của miền Nam, đặc biệt là các trí thức chế độ trước năm 1975, đóng góp rất lớn cho việc hình thành tư duy kinh tế mới.
Dĩ nhiên, vào thời điểm đó, những ý kiến của nhóm, dù được lắng nghe, nhưng khó có thể đi vào thực hiện.
Một số đề án về chính sách tiền tệ, tín dụng, giá cả, ngoại thương, khu chế xuất, tài chính, kinh tế đối ngoại được Nhóm thứ Sáu đưa ra trong suốt thời gian từ 1980-1983.
Phải đến sau thời kỳ đổi mới, các đề án trên mới được thực hiện.
Một nghiên cứu về so sánh giá đối với năm nhóm hàng gồm (1) hàng nhập khẩu, (2) hàng công nghệ thực phẩm sản xuất tại VN với nguyên liệu nhập khẩu, (3) hàng nông sản lương thực thực phẩm, (4) dịch vụ lao động phổ thông đơn giản và (5) vàng.
Nhóm so sánh hai thời điểm: 1973 và 1986.
Vào năm 1973 tỉ giá là 1 USD = 493 VND, còn năm 1986 tỉ giá là 1 USD = 455, tức là mức chênh lệch không lớn.
Kết quả cho thấy giá nhóm 1 năm 1986 tương đương 1973, giá ba nhóm giữa thấp hơn ít nhất 2,5 đến 4 lần so với giá năm 1973, trong khi đó chỉ có vàng là cao hơn đến 4 lần.
Như vậy, giá cả năm 1986 tụt thấp so với mặt bằng, vì thế nhóm kiến nghị cần phải chấm dứt cảnh “ngăn sông cấm chợ”, áp dụng chính sách tiền tệ hỗ trợ cho kinh tế.
Mang theo tinh thần đó, ông Võ Văn Kiệt, về sau ra Hà Nội, rồi làm Thủ tướng, cũng đã lập một nhóm think tank của mình, gọi là Tổ tư vấn về cải cách kinh tế và cải cách hành chính vào năm 1993 với 10 thành viên.
Đây chính là tiền thân của Ban nghiên cứu của Thủ tướng thời khi ông Phan Văn Khải tổ chức lại vào năm 1998.
Dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không còn ban nghiên cứu nữa mà xuất hiện Tổ tư vấn kinh tế với 12 thành viên, đứng đầu là cựu bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển.
Tổ này hoạt động theo nhiệm kỳ của Thủ tướng, vì thế hết nhiệm kỳ cũng tự giải tán.
Năm thành viên cũ trong tổ này cũng chính là các thành viên trong Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa mới ra đời, trong đó tiến sĩ Vũ Viết Ngoạn giữ vai trò Tổ trưởng.
Có thể nhận thấy một nét táo bạo trong think tank mới này là sự xuất hiện của năm chuyên gia “có yếu tố nước ngoài” gồm các giáo sư đang giảng dạy tại Mỹ, Nhật, Singapore và Pháp và một người trong nước là tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh của Đại học Fulbright Việt Nam, một chuyên gia phản biện chính sách có uy tín.
Sử dụng các chuyên gia người Việt ở nước ngoài không phải là một chuyện mới. Từ nhiều năm trước, khá nhiều trí thức từ nước ngoài như tiến sĩ Vũ Quang Việt, chuyên gia về tiền tệ của Liên Hiệp Quốc.
Ông Việt, nổi tiếng với các thống kê, đã góp phần mang những phương pháp tính toán mới chuẩn mực quốc tế vào hệ thống tính toán Việt Nam, chuyển đổi từ mô hình tính hệ thống tính toán thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội cũ theo mô hình XHCN, gọi là SNA, sang thông lệ thế giới GDP.
Chuyên gia kinh tế Trần Văn Thọ cũng là một người không xa lạ đối với công cuộc cải cách, xây dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Một điều khá đặc biệt đó chính là khá nhiều trong số 15 chuyên gia của Tổ tư vấn trên chính là những người đã tham gia xây dựng và đóng góp cho Báo cáo Việt Nam 2035, một tầm nhìn dài hạn của Việt Nam hướng đến thịnh vượng.
Cụ thể đó là cựu bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh, giáo sư Nguyễn Xuân Thắng, giáo sư Trần Văn Thọ, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, tiến sĩ Trần Đình Thiên và tiến sĩ Nguyễn Đình Cung.
Theo tinh thần của báo cáo này, với tầm nhìn 20 năm sau, Việt Nam sẽ có mức thu nhập bình quân đầu người trung bình 22.000 USD tính theo sức mua tương đương (PPP).
Muốn vậy, để đạt mức tăng trưởng cao, điều cần phải làm chính là cải cách thể chế, phát triển khối doanh nghiệp tư nhân, nâng cao năng suất...
Những điểm kết nối và giao thoa giữa cũ và mới, giữa trong nước và ngoài nước đang khiến cho tổ tư vấn được kỳ vọng nhiều cả vấn đề giải quyết các khó khăn trước mắt lẫn tầm nhìn lâu dài của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập sâu và rộng.
Theo Tuổi Trẻ Cuối tuần
|
Nguồn tin: TTO
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn